
|
Trung quốc có chương trình bành trướng quân lực trong nhiều thập niên qua . Nhưng Trung quốc thực hiện một cách kín đáo để thế giới bên ngoài, nhất là Hoa Kỳ, khỏi lo ngại. Nhưng trong thời gian qua lợi dụng sự căng thẳng trong quan hệ với Đài Loan, một hòn đảo nằm ngoài khơi phía đông nam Trung quốc, Trung quốc tăng cường quân lực một cách nhanh chóng và theo sự quan sát của thế giới tây phương, sự tăng cường quân lực của Trung quốc vượt ra ngoài khuôn khổ tư vệ và ngăn chận Đài Loan tuyên bố độc lập mà rõ ràng Trung quốc có ý định tăng cường quân lực để đối đầu với Hoa Kỳ trên mọi nẻo đường thế giới . Không nói đến Đông nam á là vùng đất chiến lược cận kề, Trung quốc còn có nhu cầu dùng sức mạnh quân sự để bảo vệ quyền lợi tại Nam Mỹ và nhất là Phi châu, nơi Trung quốc đang ra sức ve vãn.
Trong năm nay giới quốc phòng Hoa Kỳ và Âu châu đặc biệt quan tâm đến sự phát triển quân lực của Trung quốc. Tờ tuần báo US News & World Reports số ngày 6/8/07 viết một bài dài với nhiều tác giả dưới nhan đề: China’s Global Reach phân tích sự bành trướng thế lực của Trung quốc tại Phi châu bằng kinh tế và tài chánh để bảo đảm nguồn dầu hỏa cho bộ máy kinh tế khổng lồ của Trung quốc đang chuyển vận hết tốc lực và tăng trưởng 10% mỗi năm, và những giới hạn của Hoa Kỳ trong việc ngăn chận sự bành trướng này vì hai nền kinh tế liên đới ràng buộc với nhau. Về phía Âu châu, tờ tuần báo The Economist số ngày 4 đến
Sự lớn mạnh quân lực Trung quốc là một mối lo đương nhiên cho Hoa Kỳ và Âu châu, nếu không muốn nói là cả Liên bang Nga, nhưng quốc gia đáng lo nhất cho sự an toàn của mình là Việt Nam, vì Trung quốc từng có một quá trình lịch sử nhòm ngó Việt Nam. Trong 500 năm qua (trước khi bị Pháp đô hộ) Việt
Những điều kiện thuận lợi đó của Việt

Các chuyên viên quốc phòng Hoa Kỳ khá ngạc nhiên về tham vọng đóng Hàng không mẫu hạm của Trung quốc. Từ thập niên 80s đến nay Trung quốc đã mua 3 chiếc của Liên bang Nga và một chiếc của Úc châu (chiếc này được đóng ở Anh trong thế chiến II). Chiếc Minsk (của Liên bang Nga) đậu gần Hồng Kông cũng như chiếc
Trung quốc đang tập “chơi” với hàng không mẫu hạm thì chưa thể là địch thủ của Hoa Kỳ. Và dù cho Trung quốc đóng được hàng không mẫu hạm – theo lượng định của giới chuyên viên sớm nhất cũng phải đến năm 2015 – thì lực lượng hàng không mẫu hạm này của Trung quốc cũng vô dụng trong vùng có nhiều bất trắc nhất là eo biển Đài Loan (trong eo biển này Trung quốc có thể dùng máy bay bay từ đất liền), nhưng dù sao nếu Trung quốc đóng được hàng không mẫu hạm thì đó là một dấu hiệu lớn mạnh của lực lượng quân sự Trung quốc. Trung quốc đang có một nền kinh tế sản xuất cần dầu hỏa, và một số tướng lãnh Trung quốc thấy Trung quốc cần có khả năng bảo vệ các thủy lộ xa chẳng hạn như eo biển Malacca.
Tuần này Trung quốc làm lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập quân đội và ước muốn của Trung quốc là quân đội của họ sẽ trở thành một lực lượng quân sự có tầm vóc quốc tế có khả năng làm cho Hoa Kỳ phải nể vì . Các tướng lãnh Trung quốc không tính việc trực diện với Hoa Kỳ, chỉ muốn đủ mạnh làm cho Hoa Kỳ phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định bảo vệ Đài Loan (trong trường hợp Trung quốc đánh Đài Loan).Sự lớn mạnh của quân đội Trung quốc làm cho bộ quốc phòng Hoa Kỳ lo lắng . Năm 2005, đô đốc hồi hưu Eric McVadon nói với một Ủy ban quốc hội Hoa Kỳ rằng quân đội Trung quốc nay có đủ khả năng đánh phủ đầu Đài Loan và đương đầu với Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ quyết định can thiệp . Không ai cho đô đốc McVadon nói quá lời vì ông ta thường được xem là tướng chủ hòa .
Báo cáo thường niên của bộ quốc phòng Hoa Kỳ gởi quốc hội tháng 5 vừa qua nói rằng khả năng phát triển quân lực Trung quốc đang làm thay đổi cán cân quân sự trong vùng Đông á, và nhắc lại nhận xét như trong bản báo cáo năm 2006 rằng khả năng phóng sức mạnh của Trung quốc ra xa còn giới hạn, nhưng trong các lực lượng quân sự đang trở mình trên thế giới đó là lực lượng có nhiều khả năng tranh chấp sức mạnh quân sự với Hoa Kỳ.
Từ giữa thập niên 90’s, để ngăn chận Đài Loan tuyên bố độc lập, Trung quốc cho thiết đặt các dàn hỏa tiển vừa ra khỏi lò chế tạo – mỗi năm chừng 100 hỏa tiễn – dọc theo bờ biển Trung quốc đối diện với Đài Loan. Hiện nay Trung quốc đã thiết đặt được 900 hỏa tiễn loại DF-11S và DF-15S. Các hỏa tiễn này tương đối chính xác và nếu đồng loạt xử dụng Trung quốc có thể hủy diệt khả năng quân sự Đài Loan trước khi Hoa Kỳ đến cứu kịp .
Trung quốc có chương trình cải tiến quân sự từ năm 1995, 1996 khi có dịp thấy sự yếu kém của mình trước sức mạnh hải quân của Hoa Kỳ. Năm 1995 Hoa Kỳ cho phép tổng thống Đài Loan Lee Teng hui đến viếng trường học cũ là đại học Cornell, Trung quốc tức giận cho bắn 10 hỏa tiễn DF-15S không có đầu đạn xuống sát bờ biển Đài Loan, Hoa Kỳ cho gởi ngay hai đội hàng không mẫu hạm tác chiến (aircraft-carrier battle group) đến eo biển Đài Loan, và Trung quốc im thin thít . Nhưng lúc này chưa chắc Hoa Kỳ có thể hành động như vậy (mà không cân nhắc chiến tranh có thể bùng nổ). Ông Douglas Paal, đại diện quyền lợi của Hoa Kỳ tại Đài Loan từ 2002 đến 2006 (một đại sứ trên thực tế) nói rằng nếu có chiến tranh với Trung quốc Hoa Kỳ phải trả một giá rất cao .
Hiện nay Trung quốc đang cố phát triển hỏa tiễn để không cho hạm đội Hoa Kỳ có thể vào gần hải phận. Đô đốc McVadon nói ông lo loại hỏa tiễn DF-21 Trung quốc đang chế tạo có tốc độ cao có thể làm cho hệ thống chống hỏa tiễn của Đài Loan trở thành vô dụng. Hơn nữa các hỏa tiễn này có thể bắn băng qua Đài Loan và tấn công các hàng không mẫu hạm ở trên Thái bình dương . Theo Đô đốc McVadon Trung quốc sẽ có khả năng này chỉ trong vài năm nữa . Và khi các hỏa tiễn đã chế ngự sự chống trả của Đài Loan thì bộ binh Trung quốc với hỏa lực của các vũ khí tối tân của Liên bang Nga sẽ nhanh chóng thanh toán chiến trường. Năm ngoái bộ quốc phòng Hoa Kỳ cho biết từ năm 2000 đến năm 2005 Trung quốc mua 11 tỉ mỹ kim `vũ khí, phần lớn của Liên bang Nga.
Nhiều công dân Hoa Kỳ không thích thấy cuộc chiến
Sự tiến bộ của quân đội Trung quốc gần đây rất lớn lao . Trong thập niên 90s quân đội Trung quốc còn là một đoàn quân gồm các nông dân ít học đi quân dịch được trang bị và huấn luyện bởi những vũ khí thô sơ do Liên bang Xô viết sản xuất trong thập niên 1950 dùng cho chiến tranh du kích . Nay Trung quốc chuyển qua phát triển hải quân và không quân. Trung quốc mua 12 tiềm thủy đỉnh loại Kilo chạy bằng động cơ Diesel của Liên bang Nga. Các tiềm thủy đỉnh này trang bị hỏa tiễn Sizzler có thể bay trên mặt biển với tốc độ cao hơn âm thanh mà các hỏa tiễn chống hỏa tiễn trang bị trên các đội hàng không mẫu hạm tác chiến của Hoa Kỳ cũng không thể chận được . Ngoài ra Trung quốc còn có 4 khu trục hạm loại Sovremenny do Liên bang Nga mới chế trang bị hỏa tiễn bay ngang và bay nhanh hơn tốc độ âm thanh để đánh các đội hàng không mẫu hạm tác chiến. Trong khi mua vũ khí của Nga, các xưởng đóng tàu của Trung quốc cũng rất bận rộn. Trong dịp triển lãm đánh dấu 80 năm thành lập quân đội Trung quốc (ngày
Hiện nay Trung quốc có 200 chiến đấu phản lực cơ của Liên bang Nga loại Su-27 và Su-30 khởi mua từ thập niên 90s (một số đóng tại Trung quốc qua bằng sáng chế Liên bang Nga) nên Hoa Kỳ không còn là lực lượng không quân không có đối thủ trong vùng. Hoa Kỳ biết rằng Trung quốc đang tính mua thêm chiến đấu cơ Su-35s để xử dụng trên hàng không mẫu hạm Trung quốc muốn đóng.
Trong thời gian có cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan (1995-96) Hoa Kỳ có khả năng kiềm chế lực lượng nguyên tử của Trung quốc. Các hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của Trung quốc có tầm bay đến Hoa Kỳ đều đặt tại những vị trí cố định Hoa Kỳ biết rõ tọa độ. Thời gian chuẩn bị phóng khá lâu nên Hoa Kỳ có đủ thì giờ phá hủy trước khi được phóng . Biết nhược điểm này Trung quốc cho đặt 6 hỏa tiễn loại DF-31s trên các dàn phóng lưu động và thay bằng nhiên liệu đặc (để giảm thời gian chuẩn bị), và có tin Trung quốc đang chế tạo loại hỏa tiễn DF-31AS có tầm xa hơn có thể bay đến bất cứ nơi nào tại Hoa Kỳ, và đặt một số hỏa tiễn nguyên tử khác trên tàu ngầm loại JL-2S.
Trung quốc rất kín đáo về tầm vóc lực lượng quân sự của mình . Trong lễ kỷ niệm 80 năm thành lập quân đội vừa qua Trung quốc chỉ giới thiệu trang phục mới của quân đội (nhiều web cho rằng hơi giống quân phục của quân đội Hoa Kỳ).
Chuyên viên quân sự Trung quốc biết rằng sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ không phải chỉ ở kỹ thuật mà còn ở huấn luyện và khả năng phối hợp binh chủng, tình báo, kinh nghiệm chiến trường và tinh thần binh sĩ, do đó Trung quốc đang làm những gì có thể làm để khắc phục nhược điểm của mình trong những lĩnh vực này . Cho đến nay quân đội Trung quốc không có kinh nghiệm hành quân gì ngoài cuộc đụng độ với quân đội Việt Nam năm 1979 và cuộc dàn quân đàn áp cuộc biểu tình đòi dân chủ tại Thiên An Môn năm 1989.
Trung quốc một phần muốn dấu kinh nghiệm chiến đấu của quân đội mình, một phần không muốn các nước trong vùng và Hoa Kỳ nghi kỵ nên chưa bao giờ diễn tập tác chiến với hàng không mẫu hạm. Ngoài ra Trung quốc còn có một số vấn đề với vũ khí của Liên bang Nga. Trung quốc không hài lòng với các chiến đấu cơ Su-27 và Su-30. Sẵn sàng bộ phận thay thế và bảo trì không phải là một vấn đề đơn giản . Đối với các khu trục hạm và tàu ngầm của Liên bang Nga Trung quốc cũng gặp những vấn đề tương tự .
Có dấu hiệu Trung quốc đang giảm dần sự lệ thuộc vũ khí vào Liên bang Nga. Các nhà quan sát quân sự nghĩ rằng sau nhiều thập niên cố gắng Trung quốc đã chế tạo được và xử dụng loại tuabin quạt (turbofan) trang bị cho các chiến đấu cơ tối tân . Nhưng tự lực trong mọi lĩnh vực thì còn lâu vì Liên bang Nga cũng không muốn chuyển nhượng quá nhiều kỹ thuật tối tân cho Trung quốc. Theo Đài Loan, Trung quốc chỉ phát triển mạnh về hỏa tiễn.
Bộ quốc phòng Hoa Kỳ dù bực dọc cũng tỏ vẻ cởi mở với Trung quốc. Năm ngoái Hoa Kỳ và Trung quốc lần đầu tiên thao diễn chung cứu người ngoài biển sau vụ hai máy bay Trung quốc và Hoa Kỳ đụng nhau trên không tháng 4 năm 2001. Qua cuộc tập dượt chung Hoa Kỳ không khám phá được điều gì mới lạ nơi lực lượng quân sự Trung quốc vì cuộc tập dược chỉ gồm những di chuyển bình thường. Trung quốc không muốn tham dự những cuộc thao diễn chung cao hơn với Hoa Kỳ, có lẽ ngại trưng bày cho Hoa Kỳ thấy sự yếu kém của mình .
Với Liên bang Nga, Trung quốc chịu tham dự những cuộc tập dượt chung có tính cách phức tạp hơn . Hai năm trước Trung quốc và Liên bang Nga thực hiện cuộc thao diễn chung gồm các cuộc hành quân phong tỏa, đánh chiếm phi trường và đổ bộ . Cuộc thao dược chung này có mục đích đe dọa Đài Loan. Về phần Liên bang Nga là dịp cho Trung quốc thấy những thứ vũ khí tối tân để dụ người khách hàng giàu có . Trong thời gian từ 9 đến 17 tháng 8 này Trung quốc và Liên bang Nga lại cùng thao dược trong vùng Urals với sự tham sự của các nước trong Tổ chức Hợp tác Thượng hải (Shanghai Co-operation Organization), một tổ chức gồm 6 nước trong đó có 4 nước Trung á .Theo tiết lộ về phía Liên bang Nga sau cuộc thao dược năm 2005 Trung quốc còn phải học hỏi nhiều, nhất là về kỹ thuật phối hợp binh chủng, thiết giáp của Trung quốc chậm và phương tiện liên lạc còn thô sơ .
Tây phương ca ngợi thiện chí của Trung quốc về sự đóng góp vào hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hiệp quộc Nhưng những đóng góp này không cho thấy khả năng quân sự đặc biệt gì của Trung quốc. Trong số 1.600 quân nhân Trung quốc tham dự vào lực lượng Liên hiệp quốc ở Liban, Congo và Liberia đa số là chuyên viên quân cụ, y tế và vận chuyển .
Các “bạch thư” quốc phòng của Trung quốc về sự phát triển quân đội công bố từ năm 1998 cũng không cho thấy gì nhiều, thí dụ chi phí cho quân đội là bao nhiêu và vào những mục gì . Trung quốc nói một cách lờ mờ rằng trong thời gian từ năm 1990 đến năm 2005, ngân sách của quân đội tăng mỗi năm 15%. Năm nay, 2007, ngân sách tăng gần 18%. Nhưng hình như trong số tăng đó không bao gồm ngân sách mua vũ khí, ngân sách cho lực lượng hỏa tiễn và nghiên cứu. Viện Nghiên cứu Chiến Lược Quốc tế tại Luân Đôn nói rằng ngân sách năm 2004 của quân đội Trung quốc lớn hơn con số công bố 220 tỉ nhân dân tệ (26.5 tỉ mỹ kim theo thời giá) khoảng 1.7%.
Trung quốc đang cố gắng tuyển mộ thanh niên có trình độ học vấn khá hơn cho quân đội và có chương trình kéo dài thời gian phục vụ và làm cho quân đội trở nên chuyên nghiệp hơn . Điều này không dễ thực hiện khi kinh tế Trung quốc đang phát triển và lương trong lĩnh vực dân sự cao, nếu Trung quốc không tăng lương và phương tiện cư trú tốt hơn cho từ 2 đến 3 triệu quân nhân và gia đình .
Các nhà lãnh đạo Trung quốc không quên rằng quân đội đã cứu đảng khỏi sụp đổ năm 1989 nên rất quan tâm đến việc làm cho quân nhân thoải mái . Trong thập niên 90s Trung quốc cho phép quân đội kinh doanh để có thêm tiền riêng, nhưng sau ra lệnh chuyển các dịch vụ thương mãi cho dân sự vì sự buôn bán sinh ra tham nhũng trong quân đội, và bù vào bằng cách tăng ngân sách .
Nhìn vào sự sụp đổ của các chế độ cộng sản trên thế giới, đảng cộng sản Trung quốc quyết tâm dùng quân đội để bảo vệ đảng và bác bỏ ý kiến của một số tướng lãnh nên để cho nhà nước nắm quân đội . Trong quân đội đảng thiết đặt một hệ thống đảng để coi chừng sự trung thành của các sĩ quan (trên nguyên tắc cũng đều là đảng viên). Nhưng đảng cộng sản Trung quốc cũng để cho các tướng lãnh rộng rãi quyền hành trong lãnh vực chuyên môn quân sự. Đảng lo ngại sự tham nhũng trong quân đội nhưng ít khi làm gì một cách công khai để ngăn chận (một ngoại lệ, năm 2006 Trung quốc cách chức tư lệnh phó hải quân vì tội ăn hối lộ và mất tinh thần). Năm 2003 bệnh SARS đã lan tràn trong quân đội vì thói quen bảo mật .
Trung quốc cho rằng Liên bang Xô viết đã sụp đổ vì chạy đua trang bị vũ khí về mọi mặt với Hoa Kỳ, nên Trung quốc không chạy đua như vậy mà áp dụng chiến lược “bất đối xứng” (asymmetric capabilities) để đánh vào những nhược điểm của Hoa Kỳ. Biết rằng quân đội Hoa Kỳ dựa vào điện toán và vệ tinh liên lạc, Trung quốc đầu tư vào hỏa tiễn bắn vệ tinh. Tháng giêng vừa qua Trung quốc đã dùng hỏa tiễn bắn hạ một vệ tinh đã cũ của mình (gây ra những phản ứng ngoại giao bất lợi cho Trung quốc). Và Hoa Kỳ tin rằng Trung quốc khuyến khích các tay nghề dân sự về điện toán tìm cách xâm nhập vào hệ thống điện toán quân sự của Hoa Kỳ. Ông Richard Lawless, một giới chức thuộc bộ quốc phòng mới đây nói rằng Trung quốc đã phát triển được một hệ thống rất phức tạp để tấn công các máy điện toán và hệ thống liên mạng (internet) của Hoa Kỳ.
Lãnh đạo quốc phòng Hoa Kỳ lo ngại rằng các tướng lãnh (Hoa Kỳ) vì quá ưa thích kỹ thuật có thể không quan tâm đúng mức đến hậu quả bất lợi về ngoại giao khi áp dụng. Trung quốc cũng có mối lo đó . Sau cuộc thí nghiệm hỏa tiễn tháng giêng vừa qua của Trung quốc (và phản ứng của thế giới) giới nghiên cứu Trung quốc bàn thảo về nhu cầu thiết lập một cơ cấu (tương tự như Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ) để phối hợp đường lối giữa các nhà hoạch định sách lược quân sự với các chính sách ngoại giao .
Nhưng Hoa Kỳ cũng không thể khuyến cáo Trung quốc không nên làm những gì mà những nước khác đang làm, thí dụ như Ấn độ trang bị hàng không mẫu hạm và chiến đấu cơ của Liên bang Nga. Tháng 5 vừa qua, đô đốc Timothy Keating, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái bình dương nói rằng sự quan tâm của Trung quốc đối với hàng không mẫu hạm là lẽ tự nhiên . Đô đốc Keating còn nói thêm rằng nếu Trung quốc muốn đóng hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ nên giúp Trung quốc trong giới hạn có thể giúp được mặc dù ông ghi nhận rằng việc này không phải dễ dàng .
Một giới chức cao cấp quốc phòng Hoa Kỳ nói người ta hiểu nhầm ý của đô đốc Keating (nhưng không giải thích hiểu lầm ở chỗ nào). Trên thực tế, giúp Trung quốc đóng hàng không mẫu hạm thì quá xa, nhưng quân đội hai bên đều có nhu cầu liên lạc với nhau và đang bàn thảo về việc thiết lập một đường dây nóng.
Chính sách của Hoa Kỳ là giữ tư thế một người bạn thận trọng khi con rồng Trung quốc đang trở mình và phục hồi sức mạnh ./.
Trần Bình
|
Hội chợ triển lãm hàng không ở Chu Hải, miền nam Trung Quốc, vừa kết thúc hôm 09/11/2008. Đó là một dịp để Bắc Kinh tiết lộ tham vọng quân sự của mình. Nhật báo Pháp Le Figaro cho biết là sau nhiều năm giữ bí mật tuyệt đối, Trung Quốc vừa trưng bày chiếc chiến đấu cơ thuộc thế hệ mới, bằng cách cho nó bay trên không cho mọi người chiếm ngưỡng tại hội chợ Chu
Bình luận bài
Theo Le Figaro, đây là một cơ hội để Trung Quốc phơi bày cả dàn vũ khí chưa một ai được thấy trước đây, trong đó có những hệ thống tên lửa mới. Điều mà người ta nhận thấy rõ ràng ở giới lãnh đạo Trung Quốc là ý muốn đưa ra cho mọi người chứng kiến tham vọng của Bắc Kinh trong lĩnh vực quân sự và công nghiệp phòng thủ : như vậy là kể từ nay Trung Quốc, với chiếc J-10, sẵn sàng có đủ sức để chơi trên sân chơi của các cường quốc khác.
Chiến đấu cơ J-10 của Trung Quốc đạt được trình độ kỹ thuật của Rafale ?
Giám đốc tập đoàn Chengdu Aircraft Industrial Group tuyên bố là chiếc máy bay tiêm kích J-10 đạt trình độ quốc tế và ông loan báo là hiện nay tập đoàn của ông đang nghiên cứu dự án về một chiến đấu cơ tàng hình J-13 dựa trên cơ sở chiếc J-10, mà Trung Quốc giới thiệu là chiến đấu cơ thuộc thế hệ thứ tư, nghĩa là cùng thế hệ của chiếc Eurofighter hay Rafale.
Tuy nhiên, theo Le Figaro, nhiều chuyên gia tây phương, mặc dù công nhận những tiến bộ kỹ thuật của Trung Quốc, không tin là chiếc J-10 đạt được trình độ của chiếc Rafale chẳng hạn. Thật ra thì không một ai biết rõ khả năng kỹ thuật của chiếc J-10 và hệ thống vũ khí của nó. Bắc Kinh muốn chế tạo ít nhất 300 chiếc J-10 đễ hỗ trợ phi đội Sukhoi 27 và 30. Đây là cả một thách thức đối với Đài Loan về mặt hàng không vào lúc mà sự kiện Washington bán cho Đài Bắc thêm một số chiếc F16 đến nay vẫn chưa được cụ thể hoá.
Chiế J-10 được trang bị đông cơ phản lực của Nga.
Có một điều mà nhà báo Le Figaro nhận thấy là chiến đấu cơ F-10 vẫn chưa phải là một sản phẩm 100% « made in China » ( sản xuất tại Trung Quốc). Các chiếc máy bay đem ra cho công chúng xem được trang bị bằng động cơ phản lực của Nga. Trong tương lai chiếc J-10 sẽ được trang bị bằng đông cơ phản lực chế tạo tại Trung Quốc, nhưng đến nay động cơ này chưa được hoàn chỉnh. Và, trước khi Hoa Kỳ lên tiếng trách cứ, Israel đã chuyển cho Bắc Kinh nhiều kỹ năng công nghệ đến từ chương trình chiến đấu cơ Lavi, một chương trình bị đình chỉ vào cuối thập niên 80.
Phóng viên Le Figaro đi đến nhận định là trong lĩnh vực vũ khí cũng như trong lĩnh vực đồ chơi và quần áo, việc làm trước tiên của Trung Quốc là phân tách, mổ xẻ rồi sau đó sao chép và cuối cùng là phát triển, từ cơ sở đó, mô hình riêng của Trung Quốc.
Tham vọng công nghệ cao của Trung Quốc: Không hài lòng với vai trò nhà sản xuất các mặt hàng rẻ tiền có tỷ suất lợi nhuận thấp, các công ty Trung Quốc đang cố vươn lên nấc cao hơn trên thang giá trị, hy vọng một ngày nào đó sẽ thách thức các tập đoàn công nghiệp lớn nhất thế giới về kinh doanh, khách hàng, sức mạnh và tiếng tăm.Chính phủ Trung Quốc đang hỗ trợ xu hướng này bằng một chủ trương hai mặt: vừa sử dụng chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao, vừa làm nản lòng các nhà sản xuất sử dụng công nghệ thấp ở miền Hoa Nam.Bằng cách siết chặt hơn các tiêu chuẩn về môi trường và lao động, bãi bỏ ưu đãi tài chính cho hàng ngàn doanh nghiệp dệt may, đồ chơi… chính phủ đưa ra một dấu hiệu rõ ràng về tham vọng toàn cầu của Trung Quốc và khuấy động làn sóng di chuyển các nhà máy ra khỏi khu vực từ lâu vẫn được coi là công xưởng của thế giới. Trong ý hướng đó, dự án của Intel tại thành phố Đại Liên được ca ngợi hết mức trong lúc một nhà máy sản xuất hàng tỉ đôi tất giá 1 đô la, có vốn đầu tư tương đương tại Quảng Đông thì bị rẻ rúng.Tại cuộc họp các trí thức hàng đầu của Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc tháng 6 vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào kêu gọi họ thách thức các nước khác trong lĩnh vực công nghệ cao. “Chúng ta đã sẵn sàng chiến đấu để giành quyền kiểm soát trận địa khoa học và chiếm một chỗ trong ban điều hành công nghệ cao của thế giới. Chúng ta sẽ nỗ lực một cách nghiêm chỉnh để tăng cường khả năng của đất nước”, ông nói.Thực hiện ý đồ này, các doanh nghiệp Trung Quốc đang lao vào công nghệ phần mềm, công nghệ sinh học, xe hơi, thiết bị y tế; nếu không tự lực phát triển được thì mua lại các công ty nước ngoài. Đầu năm nay, một công ty Trung Quốc được chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ, đã trình làng mẫu máy bay phản lực thương mại đầu tiên mà Bắc Kinh hy vọng một ngày nào đó sẽ cạnh tranh trực diện với Boeing và Airbus.
Về một số phương diện, không hẳn Trung Quốc chủ động đề ra xu thế này mà chỉ đơn giản trôi theo dòng chảy kinh tế sinh ra từ quá trình tăng trưởng cao. Sau nhiều năm gặt hái lợi nhuận từ lao động giá rẻ, các nhà máy ở Hoa Nam buộc phải di chuyển vào vùng nội địa hoặc di cư sang Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh… là những nơi có giá đất đai và lao động thấp hơn. Các thương hiệu hàng đầu thế giới ngày trước vẫn đặt gia công ở Trung Quốc các sản phẩm sử dụng nhiều lao động nay đang tìm những nguồn thay thế; tập đoàn bán lẻ Wal-Mart chẳng hạn, đang tìm các nhà sản xuất ngoài Trung Quốc để cung ứng cho mạng lưới 5.000 siêu thị của mình.Các nhà kinh tế cho rằng, Trung Quốc đang đi lại con đường mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã đi qua - từ công nghiệp kỹ năng thấp tiến lên công nghệ cao, phát triển dịch vụ và xây dựng thương hiệu tầm cỡ toàn cầu.Song, để thành công như Nhật Bản và Hàn Quốc, Trung Quốc còn phải vượt qua nhiều trở ngại, trước tiên là những yếu kém trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Ở Trung Quốc vẫn còn phổ biến thứ văn hóa bắt chước; việc ăn cắp công nghệ, thiết kế của các công ty nước ngoài để làm ra hàng nhái, hàng giả… không bị coi là phạm tội mà đôi khi còn được ca ngợi. Tất nhiên, đã có những dấu hiệu tích cực: sự trỗi dậy của một tầng lớp doanh nghiệp tư nhân năng động, một tập hợp đông đảo các kỹ sư, nhà khoa học có tư duy mới và cả sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa.Trung Quốc cũng đã thủ đắc được nhiều bí quyết công nghệ cao. Peter J. Williamson, Giáo sư Đại học Cambridge, nhận xét: “Họ đã thành công nhiều trong việc phóng vệ tinh nhân tạo, sử dụng công nghệ cao trong lĩnh vực quân sự. Và khi được nhà nước khuyến khích, nhiều loại công nghệ tưởng rằng chưa có ở Trung Quốc bỗng dưng xuất hiện từ sau bức màn bí mật”.Nhiều công ty Trung Quốc, kể cả công ty tư nhân, đang tích cực thực hiện tham vọng của chính phủ. Người nước ngoài ít nghe tiếng tập đoàn BYD - BYD là tên viết tắt bằng tiếng Anh của cụm từ “Xây dựng ước mơ của bạn” - nhưng đây là công ty lớn thứ hai thế giới về sản xuất các loại pin. Ra đời năm 1995, BYD chuyên sản xuất pin sạc lithium, điện thoại di động, thiết bị nhiếp ảnh, phụ tùng xe hơi và nhiều loại linh kiện khác cho các thương hiệu Nokia, Motorola, Sony và nhiều hãng khác. Giờ đây BYD nhắm tới một mặt hàng cao cấp: xe hơi chạy điện.Paul Lin, Giám đốc tiếp thị của BYD, thổ lộ: “Chúng tôi muốn làm ra một chiếc xe hơi thật sự “xanh”; tôi nghĩ chúng tôi có thể làm được”.Năm năm trước BYD mua lại một công ty xe hơi quốc doanh, vừa qua họ xây một nhà máy lắp ráp xe hơi rộng 15 héc ta ở Thâm Quyến và thuê một nhóm chuyên viên thiết kế xe hơi của Ý, chuẩn bị cho ra đời chiếc xe hơi điện đầu tiên vào cuối năm nay.Công ty máy tính Hasee có trụ sở tại Thâm Quyến cũng là một trường hợp đáng chú ý. Mới ra đời được 6 năm nhưng Hasee đã bán được 100.000 máy tính mỗi tháng, doanh số năm nay dự kiến đạt 800 triệu đô la Mỹ và là công ty máy tính lớn thứ hai của Trung Quốc sau Lenovo. Có điều khác với Lenovo (mua lại bộ phận sản xuất máy tính cá nhân của IBM), Hasee đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển loại máy tính xách tay có giá dưới 370 đô la với tham vọng trong một thập niên nữa sẽ trở thành nhà sản xuất máy tính lớn nhất thế giới.Chính phủ Trung Quốc ép các doanh nghiệp của mình phải leo lên nấc cao hơn trên thang giá trị vì lý do kinh tế nhưng cũng có phần vì chính trị. Thúc đẩy sáng tạo và xây dựng thương hiệu tầm cỡ toàn cầu không chỉ kích thích tăng trưởng, tạo ra công việc làm có mức lương cao hơn mà còn nâng cao vị thế quốc gia, vuốt ve lòng tự ái dân tộc. Tuy nhiên, chủ trương hạn chế công nghiệp sử dụng công nghệ thấp có thể buộc người dân Trung Quốc trả giá đắt. Ngân hàng Credit Suisse hồi tháng 4 dự báo 1/3 các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu của Trung Quốc có thể phải đóng cửa trong ba năm tới. Một nghiên cứu của Phòng Thương mại Mỹ tại Trung Quốc và Công ty Tư vấn Booz ghi nhận, chi phí sản xuất cao đang đẩy các công ty Mỹ ra khỏi đất nước này.Những kinh tế gia Trung Quốc đang say sưa với không khí hào hứng của Olympics thì cho rằng đó là điều tốt. Ông Liang Guiquan thuộc Viện Khoa học xã hội Quảng Đông công nhận các công ty công nghệ thấp từng đóng góp lớn cho tỉnh Quảng Đông, nhưng “doanh nghiệp cũng như sinh vật, phải thích nghi với môi trường. Khi môi trường thay đổi thì doanh nghiệp phải chết”, ông nói.(Theo New York Times)http://www.thesaigontimes.vn/Home/thegioi/hoso/9252/
Diều hâu chỉ có thể nhượng bộ diều hâu chứ không thể nhượng bộ bồ câu. Với các nước ASEAN có tranh chấp trên Biển Đông, trừ phi họ cùng đứng lại với nhau, nếu không sẽ không phải là đối thủ đáng để Trung Quốc nhượng bộ.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của tác giả, bạn đọc Dự Trần - cố vấn của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông như một tư liệu để bạn đọc tham chiếu.
Từng bước thiết lập chủ quyền trên thực tế dù không có cơ sở pháp lý
Tham vọng của Trung Quốc trên biển Đông từ lâu đã là một lá bài ngửa. Từ năm 1947, họ đã xuất bản bản đồ địa giới và hải giới Trung Quốc trên Biển Đông với 11 "đường viền gạch nối). Từ 1953 trở lại đây thì 2 đường viền gạch nối trên Vịnh Bắc Bộ đã bị xóa đi, để lại bản đồ chính thức của Trung Quốc với 9 đường gạch nối (hình chữ U hay hình lưỡi bò).
Theo Zou Keyuan thuộc ĐHQG Singapore thì các đường viền này không nhất thiết phản ánh quan điểm ban đầu của Trung Quốc về lãnh hải của nước này. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc phản ứng quyết liệt trước các động thái khai thác dầu khí của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn thì có vẻ như tới giờ họ đã nghiễm nhiên coi toàn bộ diện tích mặt biển gói bằng 9 đường viền gạch đứt là lãnh hải của họ.Trung Quốc mạnh hơn hẳn Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng tranh chấp như Phillipine hay Malaysia. Đây là một sự thực rõ như ban ngày. Sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và quân sự, kèm theo các phản ứng rất chừng mực và đơn lẻ, từ các đối thủ ASEAN đã khiến Trung Quốc tùy ý vận dụng chiến lược diều hâu trên Biển Đông.Từ khoảng 20 năm đổ lại đây, họ đã sử dụng một công thức tổng hợp bao gồm (1) tấn công quân sự quy mô nhỏ (Việt Nam, 1988, Philippine, 1996, 1997), (2) đơn phương thăm dò và khai thác tài nguyên trên vùng tranh chấp, (3) đe dọa bằng vũ lực (đối với ngư dân) hoặc sức ép kinh tế (với các tập đoàn dầu khí quốc tế) nhằm ngăn chặn các đối thủ tiến hành khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, (4) chia rẽ các đối thủ bằng kinh tế và ngoại giao, và (5) tuyên truyền về chủ quyền và thái độ cứng rắn của họ đối với vấn đề Biển Đông trên toàn thế giới.Công thức này có mục tiêu hướng vào việc thiết lập chủ quyền trên thực tế (de-facto) trên vùng biển này. Đứng về phía Trung Quốc thì chiến lược này là tối ưu vì một mặt nó không biến Trung Quốc thành một gã đồ tể hiếu chiến, nhưng lại giúp họ từng bước lấy được Biển Đông trong khi tuyên bố chủ quyền của họ không hề có cơ sở pháp lý (de-jure). Đáng tiếc cho ASEAN là chiến lược này đang đạt được các thành quả ngoài sức mong đợi cho Trung Quốc.
Chiến lược diều hâu trên Biển Đông Trung Hoa
Cần nhớ rằng chiến lược diều hâu không chỉ được Trung Quốc sử dụng trên Biển Đông. Họ cũng đã từng sử dụng công thức này trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông Trung Quốc (East China Sea) với Nhật Bản. Tuy nhiên, kết quả của nó lại không giống như thành tựu mà nó đưa lại trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông.Trong cuộc tranh chấp với Nhật, Trung Quốc cũng đơn phương tiến hành thăm dò/khai thác trên vùng biển tranh chấp bất chấp sự phản đối quyết liệt của Nhật. Họ cũng thường xuyên đưa tàu chiến và tàu ngầm tới vùng biển này để dằn mặt hải quân Nhật Bản. Căng thẳng diễn ra đỉnh điểm vào cuối 2003 và đầu 2004, tới mức chiến tranh tưởng như đã cận kề.
Từ tháng 8, 2003, chính phủ Trung Quốc đã ký xong các thỏa thuận khai thác với các công ty dầu khí Trung Quốc và nước ngoài như Royal Dutch/Shell và Unocal với trị giá lên tới nhiều tỉ Mỹ kim. Nhật lên tiếng phản đối vì cho rằng hoạt động khai thác này lấy cớ rằng rằng nó sẽ hút cạn nguồn dầu khí nằm sâu trong lòng biển thuộc về hải phận của Nhật. Trung Quốc bỏ ngoài tai phản ứng này của đối phương.Trước động thái của Trung Quốc, Nhật đã quyết định trả đũa. Họ đã đưa tàu thăm dò tới vùng biển tranh chấp từ tháng 7, 2004 để chuẩn bị đơn phương thăm dò và khai thác. Đương nhiên Trung Quốc đã quyết liệt phản đối và coi hoạt động này là vi phạm chủ quyền. Tuy nhiên, các phản ứn chỉ dừng lại ở mức ngoại giao và kinh tế.Khi cả hai bên đã bộc lộ thái độ sẵn sàng ăn miếng trả miếng, thì lối thoát duy nhất chỉ có thể là hợp tác khai thác – trừ khi họ sẵn sàng cho chiến tranh. Sau nhiều vòng đàm phán, tới tháng 6, 2008, Nhật và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận khai thác chung. Các khu vực khai thác chung được thỏa thuận đều nằm trên vùng giáp ranh giữa hải giới của hai nước, nhưng theo quan điểm của Nhật chứ không phải theo quan điểm của Trung Quốc (bản đồ 1).Rõ ràng là trong thỏa thuận này, đường ranh giới do Trung Quốc vẽ không có chút giá trị nào. Nhật Bản có thể phải nhượng bộ ít nhiều đứng từ lập trường của họ (thí dụ về quy tắc ăn chia trong hợp tác khai thác) nhưng lập trường của họ về ranh giới trên biển Đông Trung Quốc đã được giữ vững.
Chiến lược diều hâu ở Biển Đông
Trong thỏa thuận hợp tác với Nhật, hai bên đã cùng viện dẫn Công ước Quốc tế về Luật biển. Lập trường của họ khác nhau ở chỗ giải thích luật này như thế nào. Trong khi Nhật bản cho rằng phải sử dụng đường trung tuyến làm ranh giới thì Trung Quốc cho rằng phải sử dụng giới hạn thềm lục địa của nước này làm ranh giới. Cả hai cách giải thích này đều đã có tiền lệ, và vì thế tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không phải không có cơ sở.Trái lại, tuyên bố của họ về chủ quyền trên Biển Đông, với bản đồ chủ quyền gồm 9 điểm gạch nối lại hoàn toàn tùy tiện và không có cơ sở pháp lý. Hình lưỡi bò này xuất hiện trước cả Công ước Geneva về thềm lục địa (1958) và Công ước Quốc tế về luật biển (1982). Từ khi 2 công ước này ra đời, Trung Quốc vẫn không sửa lại bản đồ xác định chủ quyền của họ.Thiếu cơ sở pháp lý như vậy nhưng nước này đã rất thành công trong chiến lược tiến chiếm Biển Đông. Họ đã thành công trong mục tiêu chia rẽ các nước ASEAN có cùng tranh chấp. Họ cũng thành công trong việc dằn mặt ngư dân các nước láng giềng cũng như các tập đoàn dầu khí quốc tế muốn làm ăn với Việt Nam. Trung Quốc đã tổ chức thăm dò ở các vùng biển sát thềm lục địa (và nằm trong vùng đặc quyền) của Việt Nam.
Gần đây nhất, sau nhiều năm tổ chức thăm dò, vào ngày 24 tháng 11 vừa qua, Trung Quốc đã công bố dự án khai thác dầu khí ở vùng nước sâu trên Biển Đông với trị giá lên tới 29 tỉ Mỹ kim. Tuyên bố này nhanh chóng trở thành tin trang nhất trên khắp thế giới[4]. Phần lớn các hãng tin quốc tế, khi đưa tin về dự án này đã không đả động gì tới thực tế là vùng biển này đang bị tranh chấp, và thực tế là Trung Quốc không hề có chủ quyền về mặt pháp lý ở đây.
Lý do thành công của diều hâu
Có ba lý do quan trọng để chiến lược diều hâu của Trung Quốc thành công ở Biển Đông: Một là các nước ASEAN như Việt Nam và Phillipine đã rất yếu trong việc đưa vấn đề tranh chấp này tới công luận quốc tế trong khi cỗ máy tuyên truyền khổng lồ của Trung Quốc đã làm tốt việc kết nối Biển Nam Trung Quốc với chủ quyền của Trung Quốc. Vì thế, về mặt công luận quốc tế, Việt Nam và các nước ASEAN cùng tranh chấp ở Biển Đông không được ủng hộ - mặc dù lập trường của họ chính nghĩa hơn về mặt pháp lý.Thứ hai là các nước này đều phản ứng rất yếu ớt trước sự lấn át của Trung Quốc. Điều này có cơ sở thực tế là nếu đứng riêng biệt từng nước thì họ đều ở vào thế yếu xét cả về tiềm lực kinh tế và quân sự. Do ở thế yếu, họ không thể đưa ra những đe dọa khả tín nào ngay cả khi họ muốn.Thứ ba là mặc dù ở vào tình thế lép vế nếu đứng riêng lẻ, các nước ASEAN lại không hợp tác với nhau trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Thí dụ như Phillipine đã dễ dàng bị mua đứt để đồng ý ký thỏa thuận hợp tác song phương với Trung Quốc trong khi bỏ mặc Việt Nam sang một bên. Điều này phản ánh ba thực tế đáng buồn: (1) sức ảnh hưởng của Trung Quốc ăn quá sâu vào ASEAN, (2) thiếu sự tin tưởng lẫn nhau giữa các nước ASEAN về vấn đề Biển Đông, (3) các chính phủ ASEAN trong từng thời điểm cụ thể đã tỏ ra thiếu viễn kiến.Bài học về cuộc tranh chấp của Trung Quốc với Nhật và thỏa ước hợp tác khai thác giữa hai nước này cho thấy Trung Quốc không phải không chịu nhượng bộ. Diều hâu chỉ có thể nhượng bộ diều hâu chứ không thể nhượng bộ bồ câu. Với các nước ASEAN có tranh chấp trên Biển Đông, trừ phi họ cùng đứng lại với nhau, sẽ không phải là đối thủ đáng để Trung Quốc nhượng bộ.Quỹ nghiên cứu Biển Đông, trong nỗ lực đem lại sự tin tưởng lẫn nhau và khả năng hợp tác giữa các nước ASEAN trên vấn đề Biển Đông, đã đề xướng các nước này gác qua một bên các tranh chấp về đảo/bãi đá trên ở Trường Sa để tập trung vào việc phân định một cách công bằng chủ quyền trên vùng biển này theo Công ước Quốc tế về luật biển.Có thể nói không ngoa rằng đây là một trong những cửa thoát hẹp, nếu không muốn nói là cửa thoát duy nhất, cho các nước nhỏ yếu trong ASEAN trong cuộc đối đầu với chiến lược diều hâu của Trung Quốc trên Biển Đông.Dự Trần
Vài nét về tác giả bài viết:Tác giả bài viết là Tiến sĩ kinh tế học Dự Trần, chuyên nghiên cứu về tương tác chiến lược trong kinh doanh và chính trị.Ông tốt nghiệp từ Đại học tổng hợp Texas-Austin và hiện đang làm chuyên gia tư vấn kinh tế tại ERS Group Inc - một tập đoàn chuyên tư vấn cho Chính phủ Mỹ và các đại công ty trong nhóm Fortune 500 trong các vấn đề liên quan tới cạnh tranh, lao động, tài chính, đầu tư và năng lượng.Ông cũng là cố vấn cho Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Quỹ này được thành lập năm 2007. Mục đích của Quỹ là phổ biến ý thức và nâng cao kiến thức và khuyến khích, hỗ trợ nghiên cứu về tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, mặt biển và thềm lục địa, chuẩn bị các chứng cứ lịch sử và pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp sau này. Bằng con đường truyền thông và ngoại giao, vận động sự quan tâm và ủng hộ của dư luận quốc tế cho một giải pháp công bằng và hoà bình cho các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.(http://www.viet-studies.info/kinhte/BienDong_DuTran_VNN.htm)

Tiềm lực hải quân Trung Quốc và ý đồ thống trị biển Đông: Với tiềm năng quân sự của Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, họ sẽ có thể có thái độ "hợp tác, tránh đối đầu" với các nước lớn, nhưng đối với nước nhỏ như Việt Nam thì sẽ như thế nào?
Phát biểu trước diễn đàn ASEAN hôm tháng Tám năm rồi (2007) ở Manila, Phi Luật Tân (The Philippines), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi nói rằng sự gia tăng tiềm năng quân sự của Trung Quốc trong thời gian qua và sắp tới không nhằm mục đích gì hơn là cho hoà bình và an ninh. Nhưng khó mà thuyết phục được những người láng giềng trong vùng, khi Trung Quốc hiện đang duy trì một đội quân đông nhất thế giới với 2,3 triệu lính, và ngân sách cho Bộ Quốc Phòng năm nay lên tới 46 tỉ USD, gia tăng 17,8% so với năm trước đó. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, trong bài diễn văn chào mừng ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trước đó một tuần đã hứa hẹn sẽ gia tăng ngân sách quốc phòng nữa trong tương lai. Cũng chính vì thế, hiệp ước phòng thủ giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc Đại Lợi (Australia) được xem như là một cố gắng cầm chân và cân bằng lực lượng Trung Quốc trong vùng châu Á.
Về phương diện hải quân, Trung Quốc đã có những tiến bộ vượt bực về khả năng đóng tàu ngầm với hỏa tiển có đầu đạn hạt nhân có thể phóng từ tàu ngầm và tầm xa đến lục địa Hoa Kỳ, cũng như hỏa tiển Club chống tàu chiến trên biển của Nga chế tạo… đã làm Hoa Kỳ và các nước trong vùng Á châu lo lắng.
Tàu ngầm Trung Quốc làm Hoa Kỳ lo lắng
Hải quân Trung Quốc đang gia tăng sự kiểm soát và hoạt động của mình trong vùng Á châu – Thái Bình Dương làm Hoa Kỳ lo ngại và giới tướng lãnh Hải quân Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc cần phải minh bạch hóa tiềm năng quốc phòng của họ cũng như mối quan hệ quân sự giữa hai bên.

Năm rồi, Trung Quốc đã cho thế giới thấy, và không dấu diếm tí nào là họ đang xây dựng một bộ máy quốc phòng lớn mạnh và họ muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự của họ.Điều làm cho Hoa Kỳ quan ngại nhất là một loạt tàu ngầm loại Jin (Jin-class) mà Trung Quốc sẽ đưa vào hoạt động trong năm nay. Loại tàu ngầm Jin này có khả năng bắn hỏa tiển gắn với đầu đạn hạt nhân và có thể bắn tới lục địa Hoa Kỳ.Tháng Mười Một năm rồi, những đơn vị tinh nhuệ nhất từ bốn sư đoàn của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã bắn thử nhiều loại vũ khí khác nhau, bao gồm cả hỏa tiển tránh ra-đa và hỏa tiển chống chiến hạm loại Club do Nga chế tạo.Theo những nhà theo dõi và nghiên cứu Trung Quốc, những cuộc thao diễn quân sự ở phía đông Đài Loan nhằm mục đích ngăn chận mặt biển của đảo quốc này và qua đó gởi một thông điệp rất rõ ràng cho Hoa Thạnh Đốn: “Xin miễn gởi chiến hạm của qúy vị đến eo biển Đài Loan nếu có xung đột giữa Trung Quốc và Đài Loan mà mang họa.”
Đặc biệt, loại hỏa tiển Club chống tàu chiến sẽ làm cho Hoa Thạnh Đốn “chùn tay”, suy đi nghĩ lại nhiều lần trước khi quyết định gởi hàng không mẫu hạm và đoàn hộ tống hạm đến eo biển Đài Loan để bảo vệ cho đảo quốc này – như Hoa Kỳ đã từng làm trong cuộc khủng hoảng năm 1995-1996.
Cần minh bạch hóa
Sự phát triển dữ dội của Hải quân Trung Quốc đã làm cho Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh Liên quân Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương (US Pacific Command) trong cuộc viếng thăm Trung Quốc tuần rồi đã nhấn mạnh chuyện cần phải minh bạch hóa vấn đề quốc phòng của Trung Quốc.
“Càng minh bạch hóa thì sự tin cẩn lẫn nhau càng gia tăng. Điều đó sẽ giúp làm giảm cái khả năng hiểu lầm giữa hai bên. Bởi sự hiểu lầm có thể đưa đến những xung đột hay khủng hoảng và chắc chắn là chúng ta không ai muốn những điều như thế.” Đô đốc Keating nói như trên.

Những nhà phân tích quân sự cho rằng tính toán sai lầm là điều không tránh được nếu mọi chuyện không minh bạch, trong sáng. Và hậu qủa thì khôn lường!
Tháng Mười năm 2006, một chiếc tàu ngầm Trung Quốc lọt qua được hệ thống phòng thủ tàu ngầm rất tinh vi của Hải quân Hoa Kỳ, âm thầm theo dõi hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk và nổi lên cách chiến hạm này chỉ tám cây số - nghĩa là hàng không mẫu hạm này nằm trong tầm bắn của chiếc tàu ngầm này bao gồm cả ngư lôi (torpedos) lẫn hỏa tiển chống chiến hạm.
Hôm thứ Tư 16 tháng Một 2008, báo chí Đài Loan tường thuật rằng một khu trục hạm và một tàu ngầm Trung Quốc đã theo dõi hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS Kitty Hawk trong vòng 28 giờ đồng hồ hôm tháng Mười Một năm rồi 2007 khi USS Kitty Hawk đang di chuyển qua eo biển Đài Loan trên đường đi Nhật Bản từ Hồng Kông. Tuy nhiên, Đô đốc Keating phủ nhận tin này hôm 17 tháng Một 2008 khi ông ghé Hồng Kông. Nhưng ông nhấn mạnh rằng tàu của Hoa Kỳ có quyền đi qua eo biển Đài Loan (Taiwan Straits) – nơi mà vốn là điểm nóng, đã gây ra nhiều xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong quá khứ.
Hệ thống quốc phòng của Trung Quốc ngày càng mạnh làm Bắc Kinh ngày càng tự tin và càng có thái độ “rắn mắt” hơn với Hoa Kỳ. Tháng Mười Hai năm rồi, Bắc Kinh đã lên tiếng bày tỏ “sự cực kỳ quan tâm” về chuyện hàng không mẫu hạm Kitty Hawk của Hoa Kỳ di chuyển qua eo biển Đài Loan.
Trước đó một tháng, Trung Quốc từ chối không cho hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk và tuần dương hạm USS Reuben James ghé Hồng Kông.
Các nhà phân tích quốc phòng cho rằng thiếu sự minh bạch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc làm cho mọi người lo âu, đặc biệt là trong cái bối cảnh các nước trong vùng Á châu, nước nào cũng chạy đua vũ trang về phương diện hải quân.
Tháng 12 năm rồi, Úc Đại Lợi (Australia) cho hay là họ sẽ chi 25 tỉ Úc kim để phát triển và đóng loại tàu ngầm mới. Chính phủ Úc Đại Lợi cho hay là họ quan tâm đến chuyện xây dựng lực lượng hải quân của các nước Trung Quốc, Ấn Độ và cũng như các nước trong vùng Đông Nam Á châu.
Mặc dù Trung Quốc khi nào cũng nói họ xây dựng nền quốc phòng vững mạnh vì mục đích bảo vệ hòa bình, nhưng liệu họ có đáp ứng đòi hỏi từ phía Hoa Kỳ là minh bạch hóa sự chi tiêu cho Bộ Quốc Phòng và họ đang có những gì trong tay, thì lại là chuyện khác.
Tháng Mười năm 2006, ông Sha Zukang, một trong những nhà ngoại giao thâm niên nhất của Trung Quốc, đã nói rằng Hoa Thạnh Đốn nên “im mõm” lại về chuyện gia tăng khả năng quân sự của Trung Quốc. Ông cho rằng Hoa Kỳ đang khống chế thế giới về phương diện quân sự thì Hoa Kỳ có lý do gì để bảo Trung Quốc phải làm gì?

Đài Loan - điểm nóng
Sau khi gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc ông Yang Jiechi và những nhân vật đầu não của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) bao gồm phó chủ nhiệm Quân ủy Trung ương tướng Guo Boxiong, hôm thứ Hai tuần rồi, Đô đốc Keating nói rằng: "Các viên chức quân sự Trung Quốc, những người mà tôi đã gặp và có cơ hội thảo luận - đã nhấn mạnh rằng sự mong muốn của họ là chỉ bảo vệ những điều họ cho là của họ và chẳng có gì hơn." Nhưng rất tiếc không thấy Đô đốc Keating cho hay các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện đang tranh chấp giữa các nước trong vùng Á châu có thuộc loại "họ cho là của họ hay không?"
Trung Quốc xưa nay vẫn xem Đài Loan là một tỉnh ly khai của Trung Quốc vào năm cuối của cuộc nội chiến năm 1949, và đã thề là sẽ sát nhập vào lại Trung Quốc. Tình hình ở eo biển Đài Loan ngày càng căng thẳng do Tổng thống Trần Thủy Biển đòi tuyên bố độc lập cho Đài Loan trong năm cuối nhiệm kỳ Tổng thống của ông và trước ngày bầu cử Tổng thống tháng Ba sắp tới.
Trong cuộc họp với Đô đốc Keating hôm thứ Hai, Tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng Nhân dân tướng Chen Bingde đã cảnh cáo Hoa Kỳ đừng "gởi tín hiệu sai lầm" cho Đài Loan, và yêu cầu Hoa Thạnh Đốn cắt đứt mối quan hệ quân sự đối với Đài Loan. Đô đốc Keating lập lại rằng Hoa Kỳ vẫn tôn trọng nguyên tắc "một nước Trung Quốc". (one China principle).
Tuy Đô đốc Keating không được giải thích rõ ràng và minh bạch tại sao hàng không mẫu hạm Kitty Hawk và hai tàu rà mìn của hải quân Hoa Kỳ không được phép ghé Hồng Kông tháng Mười Một năm rồi, nhưng Trung Quốc đã ngụ ý họ làm thế để phản đối Hoa Kỳ đã quyết định bán vũ khí cho Đài Loan và cũng bởi vì Tổng thống Bush đã đón tiếp nhà lãnh đạo tinh thần của Tây tạng đang lưu vong, là ngài Dalai Lama tại Tòa Bạch Cung năm rồi.
Tuy nhiên, theo một nhà nghiên cứu về Trung Quốc có uy tín, ông Willy Lam, thì những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định cho thế giới thấy sức mạnh quốc phòng của mình “như là một siêu cường mới”, nhưng không có nghĩa là họ muốn gây nên sự xung đột. “Ai đâu ở đó, đừng đụng chạm chi nhau. Tớ chỉ cần qúy vị biết tớ “có ngón” và đừng đụng đến tớ là được.”
Trong một bài báo ông viết và vừa đi trên International Herald Tribune: “Châm ngôn của thập niên 1990 của Đặng Tiểu Bình cho các nhà ngoại giao là – “Kín đáo, đừng xuất đầu lộ diện để cho ai thấy và không bao giờ tự nguyện đứng ra cầm đầu một cái gì cả.” Họ đã áp dụng điều này và tuy lối hành xử như thế "thiếu phong cách và bản lĩnh của một nước lớn", nhưng thực tế tuồng như mọi chuyện điều hanh thông. Ông Lam cho rằng, rất có thể câu châm ngôn của ông Đặng trong việc ứng xử với Hoa Kỳ cũng hứa hẹn nhiều êm thắm: “Hợp tác với nhau và tránh đối đầu.” Bởi hơn ai hết, Trung Quốc biết một sự xáo trộn - do đối đầu với bất kỳ một cường quốc khác - đều ảnh hưởng đến sự ổn định cần có cho sự phát triển của Trung Quốc. Đó là cách hành xử của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ cũng như các nước lớn khác trong vùng; nhưng đối với một láng giềng Việt Nam yếu kém hơn về tiềm năng quân sự, và một Hoàng Sa, Trường Sa hứa hẹn nhiều dầu khí cần thiết cho sự phát triển nền kỹ nghệ Trung Quốc trong hai mươi lăm năm tới, thì chủ trương của Trung Quốc chắn chắn sẽ khác. Những diễn biến vừa xảy ra quanh vụ tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa cho thấy Bắc Kinh càng lúc càng hung hăng cùng lúc với thái độ mềm mỏng và lẫn tránh của Hà Nội.
Sự phát triển tiềm năng hải quân của Trung Quốc trong vùng biển Đông, biết đâu là nhằm cầm chân Hoa Kỳ tại chỗ để dễ bề thao túng "sân sau" của mình". Phải chăng đó là lý do mà Bắc Kinh nói với Đô đốc Keating trong buổi họp tuần rồi mà chính ông Keating đã lập lại: "Các viên chức quân sự Trung Quốc, những người mà tôi đã gặp và có cơ hội thảo luận - đã nhấn mạnh rằng sự mong muốn của họ là chỉ bảo vệ những điều họ cho là của họ và chẳng có gì hơn."
Liệu Hà Nội sẽ đáp ứng như thế nào khi Trung Quốc biến biển Nam Hải thành cái hồ cá cảnh của họ? Và Hoàng Sa, Trường Sa là những hòn non bộ trong hồ cá cảnh đó?
Hà Nội có thấy chăng con đường duy nhất để thoát ra khỏi bế tắc ngày hôm nay là một tổng lực của toàn dân, trong cũng như ngoài để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, văn minh, dân chủ, phú cường; mà trước hết đảng cộng sản Việt Nam phải chấm dứt độc quyền yêu nước. © DCVOnline
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4567

Hoàng Sa, Trường Sa Và Tham Vọng Quân Sự Của Trung Quốc
Thông tin dưới đây trên báo The Australian Úc, xác định chiến lược, bộc lộ tham vọng biển Ðông của Trung Quốc và lý do bùng phát mâu thuẫn với Việt Nam về Trường Sa và Hoàng Sa nhiều năm nay.
Có nhiều biểu hiện cho thấy đây chính là lý do Ðài Loan, Philippinnes đều muốn thị sát Trường Sa để ước tính một khả năng và hải trình tấn công phòng thủ đối với Trung Quốc rõ hơn là vì tham vọng lãnh thổ, dầu hỏa.Hoan nghênh Ðài Loan và Philippinnes đã hủy bỏ các chuyến đi vì cần phải tôn trọng chủ quyền VN. Nếu cần phải xin thuê mướn làm căn cứ, hay liên minh chia xẻ thông tin quân sự chiến lược với VN.Nếu nay, VN đóng góp vào hoà bình thế giới bằng nhận định rõ ràng độc lập về con đường đối ngoại, thì cán cân lực lượng biển Ðông với nguy cơ bị TQ làm mất ổn định sẽ được hạn chế.Năm 1945, ông Nguyễn Tất Thành không làm được việc chọn lựa phe đồng minh tốt là Mỹ. Do cá nhân thấp kém không được Mỹ chiếu cố dù có viết bảy lá thư cầu thân, và làm cả việc giải thể đảng CS, cũng không là người có đủ uy tín để được chọn lựa. Khi biết nước Mỹ tốt, nhưng mà vì do tham vọng cá nhân ngã theo Mao, lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc, khiến VN có 30 năm khói lửa và 3,8 triệu người chết, mất đất, mất biển... Thử hỏi lịch sử có thể nào dành cho con người này danh phận nào ngoài tội tham vọng phản dân hại nước. VN hôm nay phải làm được việc chọn lựa đúng.TQ luôn cao ngạo, luôn dùng biện pháp "côn đồ" cướp đảo, bắn giết ngư dân nên VN, có thể dứt khoát chọn lựa là thứ lân bang không thân thiện, đối thủ trong công bằng nếu muốn có hoà bình.Dân chúng và Việt kiều đóng góp tiền thuê Interpool quốc tế truy tìm kẻ bắn giết ngư dân mà TQ luôn chối dài. Hình ảnh trên vệ tinh không phải không có. Sau đó, đưa ra toá án quốc tế, chứ sao mà đảng và chánh quyền CS im ỉm cam phận thấp hèn hoài, và còn hùa theo TQ nói qua loa với dân VN?! VN có quyền đàm phán cho Ðài Loan, Philippinnes thuê các đảo làm căn cứ và làm người điều hành căn cứ gìn giữ hoà bình quốc tế Nato ở Cam Ranh.VN có vịnh Cam Ranh từng là căn cứ Hải Quân an toàn, có tầm ảnh hưởng quốc tế. Nếu Việt Nam được quốc tế giúp sở hữu các phương tiện bảo vệ, đủ thực lực kiểm soát vùng biển hữu hiệu, đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa, và phối hợp quốc tế giữ gìn hoà bình toàn vẹn lãnh thổ, là con đường đưa VN đến uy tín quốc tế trong một thế giới hoà bình và tiến bộ.
Về đối nội, phải mau chóng xoá bỏ đặc quyền cho người cơ hội, phe nhóm tham nhũng hưởng lợi, gây thành gió nổi sóng ngầm không ủng hộ CSVN. Thiết lập cơ chế dân chủ để mục đích chọn ra được người tốt, người giỏi đảm đương việc nước.Nhật cũng từng đi sai đường trước CSVN, và chỉ khi nhận ra điều cao cả hơn trong tinh thần nhân loại thì mới có được sự an lành tiến bộ.* Tài liệu tham khảo: (Thông tin trên báo The Australian Úc)
Không ảnh căn cứ tàu ngầm hạt nhân dưới lòng đất của Trung Quốc.(Satellite images reveal China's underground nuclear submarine base)
Rowan Callick, China correspondent April 24, 2008Chuyên gia tình báo quân sự thuộc nhóm Jane's Information Group nói, Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ lớn dưới lòng đất cho tàu ngầm hạt nhân tại vùng bán nhiệt đới của Trung Quốc là đảo Hải Nam.Nhóm Jane's nói, năm năm trước (2003) đã có thông tin đầu tiên từ bộ phận phòng ngự Châu Á về việc xây dựng căn cứ này, nhưng bây giờ có thể xác định qua không ảnh vệ tinh mới có độ phân giải cao.Hải quân Trung Quốc nhanh chóng gia tăng lực lượng. Có 57 tàu ngầm trong đó có năm tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân, đa số tàu ngầm mang hoả tiển chống tàu thủy Yingi-8 có thể phóng hỏa tiển khi vẫn đang lặn dưới mặt nước, điều này cho thấy một khả năng mới, khi mười tám tháng trước, một tàu ngầm dài 75 mét tên Song S20, đóng tại hãng đóng tàu thủy Wuhan trang bị khác thường bằng động cơ diesel không gây tiếng động của Ðức, bất ngờ nổi lên giữa một điểm tập kết quân sự chiến đấu Mỹ.Tàu ngầm xuất hiện trong vòng 8Km từ tàu sân bay Kitty Hawk tại vùng biển quốc tế không xa Okinawa là đảo phía Nam của Nhật.Căn cứ Yulin mới này nằm gần Tam Á Sanya, một trung tâm nghỉ mát đang phát triển nhanh của Nam Hải Nam. Sanya là nơi Thủ tướng Kevin Rudd và chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Ðào gặp nhau 12 ngày trước (12.4.2008)Ðảo nhỏ bằng một nửa là Tasmania là điểm du lịch nổi tiếng và trái cây nhiệt đới và từng là nơi tổ chức thi Hoa Hậu thế giới.Căn cứ cách bờ biển Việt Nam chừng 200 Km. Jane's nói, tầm cỡ của căn cứ cho thấy có khả năng trở thành một căn cứ trọng điểm cho chuyên chở hàng không và tàu biển trọng tải lớn cũng như tàu ngầm.Loại hoả tiễn cho tàu ngầm là 094 thuộc thế hệ hai đã được chở đến đây tháng 12.2007.Jane nói căn cứ như vậy có ý nghiã "cho việc Trung Quôc kiểm soát vùng biển Trung Quốc phía Nam và ý đồ chiến lược của Bắc Kinh về việc kiểm soát chặt chẽ vùng eo biển trên mặt và ngầm của vùng biển này."Ðiển hình là việc Trung Quốc đòi không được đưa ra giải thích nào cho công chúng về sự sự phát triển (quân sự) này, trong tranh luận nóng giữa Trung Quốc với Việt Nam về chủ quyền đảo Trường Sa, Hoàng Sa - được cho rằng có nhiều dầu - cũng như có các chuyến hải hành dày đặc đến từ Châu Âu, Bắc Á, Ðài Loan cách 900 Km đông bắc Hải Nam.Và Jane's nói thêm rằng: "Sự tăng cường sự độc lập cung ứng trong việc nhập khẩu dầu và khoáng chất của Trung Quốc đã đóng góp công sức vào mối quan hệ đặc biệt về việc bảo vệ đường ra vào mang tính quan trọng sinh tử của các vùng biển nhất là phía Nam".Ban An ninh quốc gia Ðài Loan vừa mới báo cáo rằng số hoả tiễn chống Ðài Loan do Trung Quốc triển khai đã tăng đến con số 1.400 đầu năm nay 2008, thêm chừng 190 hoả tiễn từ tàu thủy nổi.
Ominous: A tunnel entrance thought to lead to caverns that could hide many submarines. Below: A 2005 picture shows engineering and excavation barges working at the same spot
Ban An Ninh nói, Hải quân Trung Quốc, với trên 1,000 hoả tiễn và 250.000 quân đã đạt sức mạnh cần thiết để phong toả Ðài Loan.Ðài Loan chi 12,3 tỷ cho 8 tàu ngầm chiến đấu có động cơ diesel, sẽ mua của Mỹ, dù kết cấu tiên tiến nhất có thể phải cần đến 18 tháng mới hoàn thành. Quyết định này dự kiến được đưa ra ngay sau ngày 20 tháng năm, lễ nhậm chức của Tổng thống Ðài Loan mới là Ma Ying-jeou.Ðài Loan hiện có hai tàu ngầm xuất xứ Hà Lan Hải Long (Sea Dragon = Rồng biển) và hai tàu ngầm thế hệ thế chiến thứ hai chỉ dùng để huấn luyện.Một báo cáo được trình lên ban nghiên cứu thượng viện Mỹ trong tháng này từ cơ quan Ðặc vụ An ninh Châu Á, chuyên gia Shirley Kan nói:"Quân đội Nhân dân Giải phóng đã tiếp tục xây dựng lực lượng nhằm bao vây Ðài Loan làm nổi lên vấn đề rằng có thể nào cán cân lực lượng đã thay đổi nghiêng về có lợi cho Trung Quốc "Nếu đảng Kuomintang của ông Ma thương lượng rút các hoả tiễn nhắm vào Ðài Loan thì, theo báo cáo, Ðài Loan sở hữu "quân sự và chương trình hoả tiễn có đủ khả năng như một yếu tố đáp ứng yêu sách của Trung Quốc."Trần Thị Hồng Sương(http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=25044)
One of the photos shows China's latest 094 nuclear submarine at the base.Bài “Tham vọng đại dương của Trung Quốc” đăng trên website RFA Việt ngữ có đoạn nói về việc Đô đốc Trịnh Hòa cách nay 600 năm đã đem một hạm đội hùng hậu nhất thế giới thời ấy đi thám sát các đại dương bên ngoài lãnh hải Trung Quốc.Điều này chứng tỏ Trung Quốc từng có người đi biển tài ba, nhưng vì sao lại bỏ quên sức mạnh hải quân để đến nỗi bị ngoại quốc phương xa xâm lăng, xâu xé?Nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, cũng là nhà nghiên cứu sâu rộng về lịch sử, văn hóa, chính trị Trung Quốc, có thể đưa ra một giải thích về câu hỏi đó vì liên quan đến Việt Nam và các anh hùng dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi. Giữa bối cảnh Trung Quốc nối lại giấc mộng bá chủ đại dương khi xưa, chuyện xưa khiến ta nhớ tới chuyện nay qua phần trao đổi của Việt-Long với ông Nguyễn Xuân Nghĩa sau đây.
Mộng bá chủ đại dương
Việt Long: Trước hết, thưa ông, bảy chuyến hải hành của Đô đốc Trịnh Hoà thời Minh bên Tàu là như thế nào. Mục tiêu
và kết quả ra sao, mà vì sao lại chấm dứt?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Về đại thể, Trung Quốc lỡ hẹn với lịch sử chừng 600 năm, nay đang nối lại giấc mơ xưa là trở thành đại cường hải dương thay vì chỉ là đại cường lục địa như trong mấy ngàn năm lịch sử của họ.
Và thứ hai, cái hẹn ấy lại có thể bước qua đầu Việt Nam vì nơi duy nhất Trung Quốc có thể bành trướng được, do địa dư hình thể, chính là Việt Nam. Trong tinh thần ấy, ta nên nhìn lại chuyện Trịnh Hoà và yếu tố Việt Nam khiến Âu Châu chứ không phải Trung Quốc đã thành bá chủ hải dương. Đây là một câu chuyện rất ly kỳ mà cũng là thời sự.
Việt Long: Ông cho rằng chính Việt Nam đã cắt đứt giấc mộng bá chủ hải dương của Trung Quốc vào sáu thế kỷ trước, ông có thể chứng minh điều đó?
- Thưa đúng là Việt Nam có góp phần cho tai nạn lịch sử ấy của Trung Quốc. Muốn thấy rõ, ta nên nhắc lại lịch sử của hai nước hơn 600 năm trước. Thời ấy, Chu Nguyên Chương vừa chấm nhà Nguyên Mông và lập nên nhà Minh vào năm 1368, dưới tên Minh Thái tổ, niên hiệu Hồng Võ và trị vì đến năm 1398. Năm đó cũng là khi Hồ Quý Ly nắm quyền nhiếp chính và kết thúc nhà Trần.
Tại Trung Quốc, Minh Thái tổ truyền ngôi cho cháu nội là Chu Doãn Văn, làm vua đến 1402, niên hiệu là Kiến Văn. Nhưng người con thứ tư của Minh Thái tổ là Chu Lệ hay Chu Đệ đã cướp ngôi của cháu. Ông là Minh Thành tổ, lập ra thời Vĩnh Lạc từ 1402 đến 1424, và là người quyết định tấn công Việt Nam, tiêu diệt nhà Hồ vào năm 1407 khiến Việt Nam bị 10 năm Minh thuộc.
Nhưng, khi cướp ngôi mà không chắc người cháu là vua Kiến Văn đã chết hay chưa, lại nghe đồn rằng Kiến Văn đã trốn xuống Đông Nam Á, Minh Thành tổ mới sai Tam Bảo Thái giám Trịnh Hoà làm Đô đốc giong thuyền ra biển để xuống Đông Nam Á nghe ngóng tình hình. Đây là một trong nhiều lý do khiến vị Đô đốc người Hồi tên là Mã Tam Bảo đóng tầu ra khơi, lần đầu vào năm 1405. Năm đó, Nguyễn Trãi của ta mới 25 tuổi và ông Đô đốc này 34 tuổi.
Việt Long: Ông có thể nói thêm đôi chút vì lý lịch của ông Đô đốc Thái giám này không?
Các "bảo thuyền" của ông ta, có từ sáu đến tám cột buồm, có thể dài gấp đôi và có sức trọng tải gấp sáu các hải thuyền của Columbus ra khơi vào năm 1492.
Nguyễn Xuân Nghĩa: Ông ta là người Hồi giáo, tổ tiên xuất phát từ xứ Uzbekistan ngày nay, đã sống nhiều đời tại Vân Nam. Mã Tam Bảo là tên phiên âm từ Hồi giáo của Mahmud Shams.
Khi Chu Nguyên Chương tiêu diệt tàn dư Nguyên Mông tại Vân Nam vào năm 1381 thì Mã Tam Bảo bị bắt và bị thiến năm 11 tuổi, nhưng được Chu Lệ Vương là Minh Thành tổ sau này yêu quý mà đem về nuôi và cho đi học. Thái giám Mã Tam Bảo có công giúp Lệ Vương cướp ngôi của cháu, được vua ban tên Trịnh Hoà.
Mã Tam Bảo là người Hồi giáo, mà cha và ông đã từng hành hương tại Thánh địa Mecca tại xứ Saudi Arabia ngày nay, nên khá am hiểu về địa dư, địa đồ và lập ra căn cứ hải quân công xưởng gọi là Đông Xưởng để đóng tầu viễn duyên. Các "bảo thuyền" của ông ta, có từ sáu đến tám cột buồm, có thể dài gấp đôi và có sức trọng tải gấp sáu các hải thuyền của Columbus ra khơi vào năm 1492.
Việt Long: Bảy chuyến hải hành của Đô đốc Trịnh Hoà ngoài mục đích truy tìm vua Kiến Văn còn có mục tiêu gì khác?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Chính yếu là phô trường đức sáng của Thiên tử nhà Minh qua việc trao đổi tặng vật với các nước gần xa, chứ chưa hẳn là thương mại hay bành trướng quân sự như Âu Châu sau này. Đây là khía cạnh khoa trương của nền văn minh Trung Hoa
Giấc mơ không thành
Việt Long: Thế vì sao những chuyến hải hành đầy hứa hẹn đó lại bị huỷ bỏ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Minh Thành tổ mất, con trai là Chu Cao Sí ở ngôi có một năm, cháu nội là Chu Chiêm Cơ lên ngôi từ năm 1425 với niên hiệu là Tuyên Đức. Các văn từ của Nguyễn Trãi trong "Quân trung Từ mệnh tập" gọi vị vua này là "thằng nhãi ranh Tuyên Đức"!
Hai năm sau thì 10 năm kháng chiến của ta kết thúc, năm 1427, khi Liễu Thăng bị chém bay đầu ở Lạng Sơn làm đại quân nhà Minh dưới quyền Vương Thông bị vây tại Đông Quan, tức là Thăng Long, đành phải đầu hàng.
Nhìn lại lịch sử nhà Minh, ta thấy triều đại Tuyên Đức bị khủng hoảng ở hai khía cạnh an ninh và kinh tế. Về an ninh, nhà Minh vẫn bị các bộ tộc Mông Cổ tấn công ở phương Bắc và tăng cường xây dựng Vạn lý Trường thành mà ta thấy ngày nay.
Con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng có góp phần kỹ thuật cho việc chống lại quân Mông Cổ bằng cách cải tiến súng thần công. Hình như sau này ông lên tới chức vụ ngang hàng Thứ trưởng Quốc phòng là nhờ tài năng đó!
Minh Tuyên Đức ra lệnh cấm đóng tầu viễn duyên, không ai được có tầu có quá ba cột buồm. Từ cái lệnh gọi là "hải cấm" ấy, Trung Quốc nhường Đông hải cho... hải tặc, cho Nụy khấu, tức "giặc lùn" ám chỉ người Nhật,
Mặt khác, bị thất trận đầy tốn kém ở phương Nam dưới tay Lê Lợi, nhà Minh lâm vào khủng hoảng kinh tế. Các Nho thần bảo thủ thời ấy bèn viện dẫn lời đức Thánh Khổng là "cha mẹ còn tại thế mà mình đi xa thì là bất hiếu!" mà nói rằng chẳng có lý do gì khiến ta phải bành trướng ra ngoài, mà giong buồm ra biển!
Yếu tố chính là ý thức hệ, lồng bên dưới là an ninh và kinh tế mà cuộc kháng chiến của Việt Nam có góp phần đáng kể.
Kết cục, sau khi Trịnh Hoà qua đời và được thủy táng trong chuyến hải hành thứ bảy, Minh Tuyên Đức ra lệnh cấm đóng tầu viễn duyên, không ai được có tầu có quá ba cột buồm. Từ cái lệnh gọi là "hải cấm" ấy, Trung Quốc nhường Đông hải cho... hải tặc, cho Nụy khấu, tức "giặc lùn" ám chỉ người Nhật, và đấy là lúc xuất hiện loại người như Từ Hải, một tay cướp biển mà đòi vạch đôi sơn hà với nhà Minh Gia Tĩnh!
Tổng kết lại, từ giữa thế kỷ 15 trở đi Trung Quốc bế môn tỏa cảng và thu vét phương tiện phòng thủ để chỉ là cường quốc lục địa. Giấc mơ toàn cầu hoá của Trịnh Hoà coi như tan thành bọt biển và vài chục năm sau, Columbus xuất hiện cùng các nhà hải hành khác của Âu Châu làm thay đổi bộ mặt thế giới!...(http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/tham-vong-dai-duong-09222008142131.html)
Ngày 28 tháng 12 năm 2006 hầu hết các báo lớn của Trung Quốc đã trích đăng ngay trang đầu bài diễn văn của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào ngày trước đó trong một cuộc họp với các sĩ quan hải quân về việc Trung Quốc phải xây dựng một hệ thống hải quân hùng mạnh có thể bảo vệ quyền lợi, quyền thế, và an ninh của Trung Quốc bất cứ lúc nào. Hồ Cẩm Đào nói rằng: “Chúng ta phải cố gắng xây dựng một lực lượng Hải quân Nhân dân hùng mạnh có thể đáp ứng được sứ mạng lịch sử trong một thế kỷ mới và một thời kỳ mới.”[1]
Ngày 28 tháng 12 năm 2006, trả lời câu hỏi của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam về việc Trung Quốc đã tiến hành xây dựng bia chủ quyền tại các điểm cơ sở lãnh hải, trong đó có một số điểm cơ sở trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Dũng nói:
Việt Nam một lần nữa khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này….
Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ trương giải quyết mọi tranh chấp trên biển giữa các nước liên quan bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông năm 2002, vì mục đích tăng cường hợp tác hữu nghị, giữ gìn hòa bình và ổn định trên biển Đông.[2]
Không biết hai sự kiện trên có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay không. Nhưng vì Trung Quốc không bị một sự đe dọa nào trên trên đất liền cả (trừ các cuộc biểu tình của nông dân và sự chống đối của một thiểu số khoảng 50 nghìn người đạo Hồi ở vùng Tân Cương) trong khi ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã tăng trung bình 15,36% mỗi năm từ năm 1990 đến 2005, và tăng 17,8% năm 2007,[3] hải quân Trung Quốc đã tăng cường rất nhanh trong 16 năm qua. Do đó, ý định của bài nầy là tìm hiểu xem chiến lược của hải quân Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng gì đối với khu vực biển Đông. Các vấn đề tranh chấp trong khu vực biển Đông là ngoài phạm vi của bài nầy và đã được phân tích trong các bài của Từ Đặng Minh Thu và Vũ Quang Việt trong số Thời Đại Mới nầy. Vì thế, ở đây tôi sẽ không đề cập đến các vấn đề ấy nữa mà chỉ mong bổ sung các bài ấy với một số thông tin về hải quân Trung Quốc và chiến lược của nó.
Trước khi đi vào chi tiết về chiến lược của hải quân Trung Quốc, tôi xin phác qua vài nét về tên gọi và cơ cấu tổ chức của nó.[4]
Hải quân Trung Quốc được gọi là “Giải phóng quân Hải quân” (Jiefangjun Haijun 解 放 军 海 军) vì nó là một bộ phận của Giải phóng quân, tức quân đội, của Trung Quốc. Các sách báo tiếng Anh thường gọi tắt là PLAN (People’s Liberation Army Navy).
Hải quân Trung Quốc gồm có 5 nhánh: binh đội tàu ngầm, binh đội tàu mặt nước, binh đội không quân, binh đội hải quân đánh bộ, và binh đội “ngạn phòng.” Ngoài ra, cũng có 10 học viện và đại học trực thuộc, nhiều viện nghiên cứu, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, và các cục chính trị, cục hậu cần, cục kỹ thuật, và các đơn vị bảo đảm phục vụ và sửa chữa. Các binh đoàn, binh đội và đơn vị trên được phân chia thành 3 vùng gọi là: Bắc Hải Hạm Đội (Beihai jiandui 北 海 舰 队), Đông Hải Hạm Đội (Donghai jian dui 东 海 舰 队),và Nam Hải Hạm Đội (Nanhai jiandui 南 海 舰 队).
Hải quân Trung Quốc được tổ chức thành những chi đội (zhidui 支 队), đại đội (dadui 大 队) và trung đội (zhongdui 中 队). Về phương thức tổ chức thì một chi đội có quân hàm tương đương với một sư đoàn của Mỹ và vì thế thường được dịch ra là “division” hay “flotilla” (hạm đội). Hải quân Trung Quốc có 7 thứ chi đội khác nhau:
· Tàu ngầm, gọi là “tiềm đĩnh” (qianting 潜 艇).
· Tàu khu trục (destroyers).
· Tàu hộ tống, gọi là “hộ vệ đĩnh” (huweiting 护 卫 艇).
· Tàu cao tốc (speedboats).
· “Tác chiến chi viện thuyền” (zuozhan zhiyuanjian 作 战支 援 舰).
· Tàu đánh đuổi tàu lặn (submarine chasers).
Nhiều chi đội là chi đội tổng hợp gồm có các thứ tàu khác nhau. Ví dụ như có một số chi đội tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm thông thường, chi đội tàu khu trục, chi đội tàu hộ tống và chi đội tàu cao tốc gồm có những “đạo đạn đĩnh” (daodanting 导 弹 艇), tàu rà mìn, tàu phóng ngư lôi và tàu đánh đuổi tàu lặn. Các chi đội tàu thường có một số “tác chiến chi viện thuyền” nhất định.
Chiến lược chung của Hải quân Trung Quốc
Theo định nghĩa của quân đội Trung Quốc thì chữ “chiến lược” (zhanlue 战 略) chỉ áp dụng cho chiến tranh (zhanzheng 战 争). Chiến tranh có thể là chiến tranh cục bộ hay chiến tranh toàn bộ; và chiến tranh là để đạt được những mục tiêu chung của một quốc gia. Trong chiến tranh thì có chiến dịch (zhanyi 战 役) và “chiến dịch pháp” (zhanyifa 战 役 法) và được dùng để điều hành các chiến trận, mà họ gọi là “chiến đấu” (zhandou 战 斗), để đạt được những mục tiêu chung của một quốc gia trong chiến tranh. Mỗi mô hình “chiến đấu” có các “chiến thuật” (zhanshu 战 术) khác nhau của nó.
Chiến lược chung của quân đội Trung Quốc được gọi là “Cương lĩnh Quân sự Quốc gia cho Thời đại mới” và gồm có hai phần. Phần thứ nhất là phần về đổi mới và hiện đại hóa quân đội toàn bộ từ trang bị vũ khí đến cơ cấu và tổ chức. Trong đó, hai vấn đề quan trọng nhất là “chuẩn bị đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ trong hoàn cảnh công nghệ cao hiện đại” và “chuyển đổi từ một quân đội dựa trên số lượng đến một quân đội dựa trên chất lượng.”[5] Từ những năm đầu của thập kỷ 2000 đến nay Trung Quốc chú trọng vào việc xây một quân đội dựa trên cơ khí hóa và tin học hóa mà họ gọi là “tin tức hóa” (xinxihua 信 息 化).[6]
Phần thứ hai là phần các chiến lược hoạt động, tức các đường lối cơ bản cho việc chỉ đạo chiến tranh. Phần nầy được gọi là chiến lược “tích cực phòng ngự” (Jiji fangyu 积 极 防 御) và được coi là cương lĩnh chiến lược tối cao của toàn thể quân đội Trung Quốc trong chiến tranh, hay trong việc chuẩn bị cho chiến tranh trong thời bình. Chiến lược “tích cực phòng ngự” gồm những điểm sau:[7]
· “Nói chung, chiến lược quân sự của ta là phòng ngự. Chúng ta chỉ tấn công sau khi bị tấn công. Nhưng các chiến dịch của chúng ta là tấn công.”
· “Không gian và thời gian sẽ không hạn chế sự phản công của chúng ta.”
· “Chúng ta sẽ không để các biên giới hạn chế các cuộc tấn công của ta.”
· “Chúng ta sẽ chờ cho thời điểm và điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của chúng ta trước khi chúng ta bắt đầu các cuộc tấn công.”
· “Chúng ta sẽ tập trung vào các điểm yếu của đối phương.”
· “Chúng ta sẽ dùng các lực lượng của chúng ta để tiêu diệt các lực lượng của đối phương.”
· “Các chiến dịch tấn công kẻ thù và các chiến dịch phòng thủ sẽ được thi hành cùng lúc.”
Một phần của chiến lược “tích cực phòng ngự” là khái niệm chiến lược gọi là “cận hải phòng ngự” (Jinhai fangyu 近海防御) của Hải Quân Trung Quốc. Khái niệm nầy có 3 nhiệm vụ chính:[8]
· Kiềm chế kẻ thù từ ngoài khơi và không cho đổ bộ.
· Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
· Bảo vệ sự thống nhất đất nước và quyền lợi trên biển cả.
“Cận hải” không có nghĩa là gần bờ biển. Nhưng, theo định nghĩa trong các tài liệu của Hải Quân Trung Quốc là “đến tận những nơi xa trên biển cả mà Hải Quân Trung Quốc có khả năng đưa các lực lượng đặc nhiệm đến với sự chi viện và an ninh cần thiết” (…as far as the PLA Navy’s capabilities will allow it to operate task forces out at sea with the requisite amount of support and security.)[9] [Nhấn mạnh là trong nguyên văn] Hiện nay “cận hải” được định nghĩa tối thiểu là trong phạm vi của hai chuỗi quần đảo. Chuỗi quần đảo thứ nhất thường được mô tả là một đường chạy dài từ quần đảo Kurile, qua Nhật, Philippin, và In-đô-nê-sia (từ Borneo đến Natuna Besar). Chuỗi quần đảo thứ hai là đường bắc-nam chạy dài từ quần đảo Kurile, qua Nhật, Bonins, Marianas, Carolines, và In-đô-nê-sia. Hai đường nầy bao gồm gần như toàn bộ Biển đông Trung Quốc (East China Sea) hầu hết các đường giao thương trên biển (sea lanes of communication, SLOCs) của Đông Á.
Theo một bài viết vào khoảng cuối năm 1999 khi ông còn là tùy viên hải quân Hoa Kỳ ở Trung Quốc, thuyền trưởng (Captain) Brad Kaplan cho biết rằng mục tiêu của chiến lược “tích cực cận hải phòng ngự” (“active offshore defense”) là “để khẳng định vai trò của Trung Quốc như là một cường quốc khu vực trên biển, để bảo vệ các khu vực kinh tế duyên hải và các quyền lợi trên biển, và để tối ưu hóa các chiến dịch của Hải quân (Trung Quốc) cho quốc phòng. Bổn phận của Hải quân Trung Quốc hiện nay bao gồm việc chiếm đóng và phòng thủ các hải đảo, và bảo vệ cũng như phong tỏa các đường giao thương trên biển (sea-lanes of communication). Hơn thế nữa, Hải quân Trung Quốc càng ngày càng được lãnh đạo của Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc coi như là bộ phận không thể thiếu trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan ̶ khi cần dùng vũ lực ̶ và để bảo vệ “Tây sa” và “Nam sa” (tức Hoàng sa và Trường sa) ở Trung Quốc Nam Hải (tức biển Đông).”[10]
Kaplan viết tiếp: “Chiến lược đang được Hải quân Trung Quốc phát triển tuần tự đã được mô tả là gồm hai giai đoạn riêng biệt rõ ràng. Giai đoạn đầu là để cho Hải quân Trung Quốc phát triển các khả năng của một “chiến lược phòng ngự tích cực nước màu xanh lục” (“green water active defense strategy”). Chiến lược “nước màu xanh lục” nầy thường được mô tả là bao gồm trong một hình cung từ Vladivostok ở phía bắc đến eo biển Malacca ở phía nam, và ra đến “chuỗi quần đảo thứ nhất” (Aleutians, Kuriles, Ryukyus, Đài Loan, Philippin, và quần đảo Greater Sunda) ở phía đông. Các nhà phân tích đã đánh giá rằng Hải quân Trung quốc có thể đạt được khả năng “nước màu xanh lục” nầy trong những năm đầu của thế kỷ 21. Những tài liệu đã được công bố cũng cho biết là Hải quân Trung Quốc có ý định phát triển khả năng hoạt động ở “chuỗi quần đảo thứ hai” (Bonins, Guam, Marianas, và quần đảo Palau) vào giữa thế kỷ 21. Trong tương lai, Hải quân Trung Quốc có thể sẽ bành trướng hoạt động đến các căn cứ ở Myanmar. Các căn cứ nầy sẽ cung cấp cho Hải quân Trung Quốc phương tiện đi thẳng đến eo biển Malacca và Vịnh Bengal.”
Kaplan cho biết là đến cuối thập kỷ 90 Hải quân Trung Quốc có khoảng 268.000 sĩ quan và lính, trong đó có 25.000 người trong quân chủng hàng không hải quân và khoảng 7.000 lính thủy đánh bộ. Toàn bộ lính thủy đánh bộ là thuộc Hạm đội Nam Hải. Khối lính thủy đánh bộ (thuộc Hạm đội Nam Hải) này gồm 2 lữ đoàn, gọi là Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến số một và số 164. Dưới mỗi lữ đoàn có 3 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo, một trung đoàn thiết giáp lội nước, và các đơn vị công binh, trinh sát, phòng chống hóa chất, và giao thông. Các đơn vị nầy là những đơn vị hạng tiểu đoàn và đại đội.[11]
Lính thủy đánh bộ của Trung Quốc được huấn luyện tốt và đựợc cung cấp đầy đủ các loại vũ khí cần thiết. Theo Kaplan: “Sứ mạng chính của lính thủy đánh bộ Trung Quốc là bảo vệ các đảo mà Trung Quốc đã chiếm ở Trung Quốc Nam Hải (South China Sea) trong thời bình và chiếm đóng và phòng thủ các đảo trong khu vực Trung Quốc Nam Hải trong thời chiến…. Lính thủy đánh bộ Trung Quốc được trang bị với các xe tăng lội nước (amphibious tanks) và các xe thiết giáp chở lính (armored personnel vehicles), súng đại liên (howitzers) và nhiều thứ vũ khí phóng tên lửa khác nhau. Mặc dù Hải quân Trung Quốc có khoảng 60 xe tăng… khả năng chở lính đổ bộ chỉ khoảng 5 đến 10 nghìn người cùng một lúc.” Vì thế, theo Kaplan, từ cuối thập kỷ 90 Hải quân Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các khả năng đổ bộ như thuyền bay trên nệm hơi loại gọi là Jingsha (Jingsha-class air cushion vehicles) và các loại thuyền đẩy bằng cánh quạt gió (wing-in-ground-effect craft) bay trên mặt nước khoảng 1 mét với tốc độ khoảng hơn 120 hải lý một giờ để dùng trong việc đổ bộ lính thủy đánh bộ trong tương lai.
Trong quá khứ, các cuộc tập trận đổ bộ của lính thủy đánh bộ Trung Quốc đã được phối hợp với các cuộc dội bom bằng máy bay và nã pháo từ các chiến thuyền. Nhưng vì khả năng phối hợp này còn yếu nên gần đây Trung Quốc đã phát triển hàng nghìn các loại vũ khí hổ trợ cho việc đổ bộ của lính thủy đánh bộ. Nhưng trong bài nầy tôi không đi vào chi tiết mà chỉ xin lưu ý là mặc dầu với con số khá lớn như thế, khả năng hiện nay của Trung Quốc so với Mỹ trong khu vực nầy còn kém nhiều và vì thế chưa là mối đe dọa lớn cho các tàu lặn tối tân của Mỹ.
Hơn thế nữa, việc Trung Quốc tăng cường các loại chiến thuyển chở lính đổ bộ (amphibious warships) đã gây sự chú ý của Mỹ và phản ứng của một số nước trong khu vực Đông Á. Theo một bài nghiên cứu thì trên thực tế vấn đề chạy đua vũ trang chính trong khu vực nầy là việc phát triển các chiến thuyền có khả năng đưa lính đổ bộ đến bất cứ đâu trong khu vực.[12] Hải quân Nhật, Hàn Quốc, và Ô-xtrây-li-a mỗi nước đang mua hoặc đóng ít nhất là 2 chiến thuyền đổ bộ loại 20 ngàn tấn, lớn tương đương với loại hàng không mẫu hạm loại Invincible (bất bại) của Anh Quốc. Mỗi chiếc của 3 loại nầy trong tương lai rất gần sẽ có thể đưa vào bất cứ nơi nào trong khu vực Châu Á hai đội (squadrons) máy bay trực thăng và một số thuyền đổ bộ bay trên đệm hơi (landing craft, air cushion = LCAC). Mỗi chiếc LCAC nầy có thể chở một xe thiết giáp loại 60 tấn cùng với lính, các loại xe khác, và các loại trang thiết bị cần thiết cho các cuộc viễn chinh ở các nơi trong khu vực. Nhưng Nhật, Hàn Quốc và Ô-xtrây-li-a đặc biệt chú trọng đến khu vực Đông Nam Á.
Hàn Quốc đã đưa vào hoạt động một chiến thuyền đổ bộ mới loại Dokdo và sẽ hạ thủy thêm 3 chiếc nữa trong tương lai gần. Mỗi chiếc sẽ nặng khoảng 19 ngàn tấn khi trang bị đầy đủ và sẽ có thể chở 700 lính, 15 chiếc trực thăng, 2 chiếc LCAC, vài chục chiếc xe các loại và nhiều tấn vật liệu tiếp tế cho một cuộc đổ bộ.
Theo nghiên cứu trích ở trên thì Ô-xtrây-li-a sẽ có quyết định cuối cùng vào tháng 6 năm 2007 trong việc chọn lựa giữa một kiểu chiến thuyền đổ bộ giống như kiểu Mistral của Pháp hay kiểu Strategic Projection Vessel của Tây Ban Nha. Kiểu Mistral là loại chiến thuyền được thiết kế đặc biệt cho việc đổ bộ và nó có khả năng tương đương với chiếc Dokdo của Hàn Quốc. Chiến thuyền kiểu Tây Ban Nha nặng khoảng 27 ngàn tấn và thiết kế để sử dụng các chiếc máy bay cất cánh nhanh và có thể hạ thẳng xuống (short takeoff and vertical landing = STOVL) như máy bay Harrier của Anh hay máy bay F-35B Lightening II của Mỹ. Vì thế, mặc dầu chiến thuyền đổ bộ kiểu Tây Ban Nha có thể chở hơn 900 lính, 20 chiếc trực thăng và STOVL, nó chỉ có thể chở một chiếc LCAC. Nhưng vì dưới khoang tàu là cái gầm có nước tràn vào cho nên chiếc LCAC có thể ra vào một cách hết sức nhanh chóng (so với những chiến thuyền kiểu khác phải thả các chiếc LCAC bằng các trục giây cáp xuống từ hai bên hông tàu) và có thể đưa nhiều lính và các trang thiết bị vào đất liền ngay từ ngoài khơi.
Mặc dầu hai chiếc khu trục chở máy bay trực thăng (helicopter destroyer) mà hải quân Nhật—gọi là Lực Lượng Phòng Vệ Biển (Japan Maritime Self-Defense Force = JMSDF)—đang đóng không có cửa vào thẳng trong gầm tàu như kiểu Tây Ban Nha, mỗi chiếc (tên là 16DDH) cũng có thể chở cùng một số lượng máy bay trực thăng như các chiến thuyền đổ bộ kiểu Tây Ban Nha. Thêm vào đó là hai chiếc nầy được thiết kế để phối hợp hoạt động với 3 chiến thuyền đổ bộ kiểu Oosumi mà Nhật đã hạ thủy. Mỗi chiếc Oosumi có thể chở 2 chiếc LCAC, 2 chiếc trực thăng trở lên và 330 lính.
Ngoài các chiến thuyền đổ bộ của Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, và Nhật trong khu vực Tây Thái Bình Dương còn có những chiếc WASP của hải quân Mỹ. Mỗi chiếc có thể chở 1870 lính, 42 chiếc trực thăng và STOVL và 3 chiếc LCAC.
Những chiến thuyền đổ bộ kể trên, với những máy bay trực thăng và LCAC và khả năng đưa lính đổ bộ nhanh chóng cũng như khả năng cung cấp và duy trì các cuộc hành quân đó, sẽ là những phương tiện mới để gây ảnh hưởng tại Đông Á cho dù các cuộc hành quân đó không phải là chiếm đóng các vị trí quân sự quan trong mà là để giúp giữ gìn an ninh và trật tự hay để cứu giúp những nạn nhân sóng thần hay núi lửa.
Trong những năm trước mắt, nếu có biến cố xảy ra ở In-đô-nê-sia, Phi-líp-pin, hay nơi nào đó ở Đông Nam Á thì những chiến thuyền đổ bộ của Mỹ sẽ phải phối hợp với các chiến thuyền đổ bộ có nhiều khả năng của Nhật, Hàn Quốc, và Ô-xtrây-li-a để can thiệp. Việc phối hợp nầy một đằng có nghĩa là Mỹ sẽ mất thế độc tôn trong việc can thiệp hay trợ giúp các nước trong khu vực khi có biến cố. Đằng khác, nếu bất cứ một nước nào đó muốn dùng sức mạnh hải quân để đơn phương can thiệp hay gây biến cố trong khu vực thì nước đó cũng có thể phải e dè đến sự phản ứng đa phương của hải quân các nước như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật, Ô-xtrây-li-a, và một số nước khác.
Chiến lược phủ định của Trung Quốc
Như vừa cho thấy ở trên, việc tăng cường chiến thuyền đổ bộ và các phương tiện đổ bộ khác của Trung Quốc đã gây nên một cuộc chạy đua mà nói chung là càng làm cho Trung Quốc tụt hậu so với Nhật, Hàn Quốc và Ô-xtrây-li-a. (Một trong những lý do cho việc tụt hậu của Trung Quốc so với các nước vừa kể trên trong lãnh vực phát triển các chiến thuyền đổ bộ là vì Trung Quốc cũng đang đầu tư khá nhiều vào việc phát triển hàng không mẫu hạm.)[13] Trong khi đó thì hạm đội trên mặt nước của Trung Quốc rất yếu kém so với Mỹ. Mặc dầu Trung Quốc hiện nay có hơn 400 chiến hạm loại tấn công, chỉ có khoảng 50 chiếc là loại lớn theo tiêu chuẩn của Âu-Mỹ. Những chiếc nầy được trang bị với các hỏa tiển và đầu đạn tầm gần và tầm xa nhưng không có khả năng đương đầu với các tàu chiến lớn của Mỹ hay chống lại và tìm diệt các tàu lặn của Mỹ. Ngoài các chiến thuyền tấn công, hải quân Trung Quốc có hơn 300 chiếc chiếc “hộ vệ đỉnh” đủ loại. Theo Kaplan, gần như toàn bộ các chiếc thuyền nầy đều trang bị với các khả năng gài những loại mìn với những hệ thống sử dụng công nghệ rất hiện đại. Ông ta cho biết là: “Nếu dùng với số lượng đầy đủ thì các loại mìn nầy sẽ gây một đe dọa rất khả quan đối với các chiến thuyền trên mặt nước và tàu lặn hoạt động dọc vùng duyên hải Trung Quốc, Hoàng Hải (Yellow Sea), Biển Nhật Bản, eo biển Đài Loan và Trung Quốc Nam Hải. (If used in sufficient numbers, this inventory poses a significant threat to surface and submarine units operating along China’s littoral, the Yellow Sea, Sea of Japan, Taiwan Strait, and South China Sea.)[14]
Nhưng vì Trung Quốc chưa thể đương đầu với các hạm đội trên mặt nước của Mỹ, chiến lược của Trung Quốc là dùng tàu lặn để tấn công và phủ định sức mạnh của các hạm đội trên mặt nước của Mỹ vì các tàu trên mặt nước, đặc biệt là hàng không mẫu hạm, rất khó phòng thủ trước các cuộc tấn công của tàu lặn bắn hàng loạt các tên lửa có đầu đạn các loại gần xa cùng một lúc.
Nói đến tàu lặn thì bắt đầu từ thập kỷ nầy Trung Quốc có khoảng 70 chiếc và hiện nay số lượng đó vẫn như thế vì chiến lược của Trung Quốc là thay thế những tàu lặn kiểu cũ với những tàu lặn tối tân hơn như là loại chạy bằng năng lượng nguyên tử có thể phóng các tên lửa (nuclear-power ballistic-missile system, SSBN). Một ví dụ là loại 094 SSBN được trang bị với 16 ống phóng tên lửa. Từ năm 2002 đến giữa năm 2005 Trung Quốc đã đóng 14 chiếc tàu lặn loại mới. Nếu Trung Quốc tiếp tục đóng những chiếc tàu lặn tối tân với tốc độ vừa qua thì đến cuối thập kỷ nầy Trung Quốc sẽ có 40 chiếc tàu lặn tối tân. Một lần nữa trong bài nầy tôi xin không đi vào các chi tiết về các kiểu tàu lặn mới của Trung Quốc và khả năng của chúng. Tôi chỉ muốn lưu ý là phần lớn các loại tàu lặn tối tân là trong Hạm đội Nam Hải và những tàu lặn nầy đã từng đi theo các chiến thuyền của Mỹ đến tận đảo Guam để thử xem khả năng phát hiện tàu lặn của các chiến hạm của Mỹ tinh vi đến độ nào.[15]
Một nhà nghiên cứu Mỹ, tên Richard Fisher, Jr., trong một bài với tựa đề “Trouble Below: China’s submarines pose regional, strategic challenges” đăng trong Armes Forces Journal ngày 6 tháng 3 năm 2006 viết: “Thêm vào đó là, vì trọng tâm của lực lượng tấn công nguyên tử tầng thứ hai (của Trung Quốc) chuyển về phía nam, người ta có thể dự tính rằng Bắc Kinh sẽ càng ngày càng thách thức hơn đối với các lãnh thổ mà Trung Quốc cho là của Trung Quốc trong khu vực Trung Quốc Nam Hải.” (In addition, as the focus of its nuclear second-strike capability moves south, it can be expected that Beijing will become more belligerent regarding its territorial claims in the South China Sea.) Fisher cho biết rằng tàu lặn nguyên tử loại 093 SSN có thể trang bị với các đầu đạn cruise tấn công trên đất liền (land-attack cruise missiles, LACM) với tầm xa từ 1000 đến 2000 cây số sẽ càng ngày càng được dùng ở cuối thập kỷ nầy và đầu thập kỷ tới ở các nước xa Trung Quốc để ủng hộ các chính thể và các phe phái chính trị trung thành với Trung Quốc. Trong khi đó, nếu Nhật không tăng ngân sách quốc phòng một cách đáng kể thì trong tương lai Nhật chỉ có thể duy trì khoảng 15 đến 16 tàu lặn lọai thường (conventional submarines, SSKs).[16]
Trong bài với tựa đề “China’s Submarine Challenge” mà The Heritage Foundation ở Mỹ đăng ngày 1 tháng 3 năm 2006, John J. Tkacik, Jr., cho biết hiện nay Mỹ có 35 tàu lặn trong Hạm đội Thái Bình Dương, trong đó có 3 chiếc loại tấn công nguyên tử (nuclear attack submarines) đóng ở đảo Guam. Nhưng chỉ có khoảng một chục chiếc là được đưa vào hoạt động trong bất cứ một thời điểm nào. Và vì giá đóng mỗi chiếc tàu lặn là hơn 2 tỷ đô la và vì ngân sách đóng tàu lặn đang bị cắt, đến năm 2025 Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ sẽ chỉ còn có 30 chiếc. Tkacik cho biết rằng một số nghiên cứu đã ước tính là đến năm 2025 số lượng tàu lặn của Trung Quốc ở Thái Bình Dương sẽ lớn hơn gấp 5 lần số lượng tàu lặn của Mỹ và các tàu lặn nguyên tử có các đầu đạn nguyên tử của Trung Quốc sẽ đi rình mò dọc miền ven biển Tây của Mỹ để buộc ít nhất là hai chiếc tàu lặn loại tấn công (attack submarines) của Mỹ phải đi theo dõi một chiếc tàu lặn nguyên tử của Trung Quốc. Vì những lý do trên, đến năm 2025 hải quân của Trung Quốc sẽ có thể làm chủ Thái Bình Dương.[17]
Phương pháp thứ hai trong chiến lược phủ định sức mạnh của hải quân Mỹ là làm tê liệt các phương tiện trinh sát và truyền tin của quân đội Mỹ, như giết các vệ tinh, để cho quân đội của Mỹ bị mù trong khi Trung Quốc tấn công các mục tiêu quân sự và vì thế không có thể trở tay hay tiếp ứng kịp thời. Ngày 11 tháng Giêng vừa qua Trung Quốc thử vũ khí chống vệ tinh (anti-satellite test, ASAT) bằng cách dùng phương pháp ra-đa mảng (phased array radar) để hướng dẫn một phi thuyền giết vệ tinh bằng động năng (kinetic-kill vehicle) bay theo một vệ tinh của Trung Quốc đang bay vòng quanh khoảng 475 dặm Anh trên không trung với tốc độ nhanh hơn một đầu đạn xuyên lục địa đang phóng xuống từ trên không trung và đập nát vệ tinh nầy ra thành hơn 1600 mảnh. Vũ khí chống vệ tinh nầy của Trung Quốc được tình báo Mỹ gọi là SC-19 và được phóng lên từ một dàn phóng di động. Mỹ biết trước là Trung Quốc sẽ thử vũ khí chống vệ tinh nầy nhưng làm thinh vì biết là không có cách nào cản được Trung Quốc.[18]
Ashley Tellis, một nhà nghiên cứu tại Carnegie Endowment for International Peace, cho biết là các yếu tố kỹ thuật trong cuộc thử vũ khí chống vệ tinh nầy của Trung Quốc cũng giống như các yếu tố kỹ thuật trong việc bắn hạ các tên lửa. Cùng với việc thử vũ khí giết vệ tinh, Trung Quốc sẽ triển khai hệ thống tên lửa xuyên lục địa lưu động (road-mobile intercontinental ballistic missle) gọi là DF-31. Tellis viết thêm rằng Bắc Kinh đã đi đến quyết định là phải có một hệ thống tên lửa và khả năng tiêu diệt vệ tinh hùng mạnh để “chống lại toàn bộ khả năng quân sự của Hoa Kỳ” và để phá vở “mạng lưới phức tạp nhưng khó bảo vệ của chỉ huy, điều khiển, thông tin, và các hệ thống dựa vào máy vi tính để cung cấp tin tức trinh sát” (“complex, exposed network of command, control, communications, and computer-based systems that provide intelligence reconnaissance”) cho quân đội của Mỹ. Tellis viết là bởi vì các nhà hoạch định quốc phòng Trung Quốc thấy các nhược điểm chính của quân đội Mỹ là tính chất nối mạng thông tin nên Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ các nỗ lực xây dựng các quân lực tên lửa hùng mạnh dẫu cho Mỹ có đưa ra bất cứ những đề nghị gì để hòng ngăn chặn vấn đề vũ khí hóa không gian (weaponization of space).[19]
Trong khi đó thì thái độ chống đối của Trung Quốc đối với việc Mỹ muốn triển khai/dàn dựng hệ thống phòng thủ tên lửa (ballistic missile defense system, BMD) ở Âu Châu và ủng hộ Nga trong việc tranh cãi với Mỹ về vấn đề nầy cho ta thấy Trung Quốc sợ nếu Mỹ thành công ở Âu Châu thì Mỹ sẽ có thể thiết lập hệ thống nầy ở vùng Châu Á Thái Bình Dương. Phản ứng của Trung Quốc càng ngày càng mạnh. Khi cuộc họp thượng đỉnh G8 vừa qua bắt đầu, Jiang Yu (người phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc) tuyên bố là “các hệ thống phòng thủ tên lửa có ảnh hưởng tiêu cực đối với cân bằng chiến lược và ổn định và (vì thế) có phương hại đến vấn đề tin tưởng lẫn nhau giữa các cường quốc và có thể sẽ tạo ra các vấn đề phổ biến vũ khí mới (Xinhua, ngày 5 tháng 6 năm 2007).
Ngày 21 tờ Nhân Dân nhật báo (People’s Daily) đăng một bài xã luận nói rằng kế hoạch chống tên lửa của Mỹ ở Âu Châu diễn ra cùng lúc với những hoạt động hợp tác với Nhật và Ô-xtrây-li-a để phát triển một hệ thống tương tự ở Á Châu. Bài nầy nói rằng hệ thống phòng thủ tên lửa cũng có thể dùng để tấn công như là “bắn trúng các tên lửa cao tốc tấn công các máy bay đang bay hay những vệ tinh trên quỹ đạo.” Bài báo nhấn mạnh rằng những nỗ lực của Mỹ và đồng minh trong việc xây dựng một hệ thống phòng thủ tên lửa là “phản ánh đầu óc của Mỹ muốn tăng cường trạng thái tâm lý Chiến Tranh Lạnh” và vì thế “sẽ chẳng có thể duy trì an ninh khu vực hay phát triển sự tin tưởng lẫn nhau hay sự hợp tác giữa các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.” Bài xã luận đi đến kết luận đáng ngại là hệ thống phòng thủ tên lửa “sẽ không những tăng cường sự mất tin tưởng và cảm giác xa lìa giữa các quốc gia nhưng sẽ còn tạo ra những vấn đề phổ biến vũ khí.”
Vài nhà nghiên cứu cho rằng Trung Quốc thử vũ khí chống vệ tinh để đánh đổi việc Mỹ và các đồng minh muốn gầy dựng các hệ thống vũ khí chống tên lửa từ trên không gian (space-based antimissile weapons). Peter W. Rodman, một viên chức cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ vừa từ chức gần đây, không đồng ý với quan điểm nầy và cho biết rằng Trung Quốc đã từ lâu viết về các phương cách làm sao để đánh què một siêu cường dựa vào kỹ thuật cao như vệ tinh và đã rất kiên nhẫn trong việc phát triển các vũ khí có khả năng thực hiện việc đó cho nên, theo ông thấy, Trung Quốc không có lý do gì để trao đổi cả.[20] Larry Wortzel, một nhà nghiên cứu chiến lược trong Bộ Quốc Phòng Mỹ và là cựu tùy viên quân sự tại Bắc Kinh đi đến kết luận (sau khi nghiên cứu các tài liệu quân sự của Trung Quốc) rằng Trung Quốc, cũng như Nga, chuẩn bị các hệ thống tên lửa để áp đảo bất cứ một hệ thống phòng tên lửa nào của Mỹ. Wortsel trích bài viết mới đây của một số sĩ quan Trung Quốc trong đó họ cho rằng “các lực lượng tên lửa hướng dẫn là những quân chủ bài để dành lấy thắng lợi trong một chiến tranh cục bộ công nghệ cao” (“guided missile forces are the trump card (sa shou jian) in achieving victory in limited high technology war”).[21]
Lô-gích vừa trích ở trên cũng có nghĩa là khả năng bảo vệ các vệ tinh và các mấu thông tin của hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ và đồng minh là một trong những đe dọa lớn nhất đối với chiến lược quân sự của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc càng phát triển khả năng dùng tên lửa để làm cho hệ thống trinh sát của Mỹ bị mù thì Mỹ lại càng tăng cường hệ thống phòng tên lửa. Và như thế thì quả thật sẽ có thể gây ra một trình trạng giống như Chiến Tranh Lạnh trước đây. Tình trạng mới nầy làm cho nhiều nước ở Đông Nam Á đang phải vừa củng cố quốc phòng vừa tìm các biện pháp phòng hờ (hedging) đối với Trung Quốc và Mỹ.
Ví dụ phòng hờ và thái độ của Mỹ
Một ví dụ phòng hờ là trường hợp của Ma-lai-xi-a. Ma-lai-xi-a là nước có quan hệ rất tốt với Trung Quốc và cả hai nước nầy đều công nhận như thế. Trên bình diện kinh tế thì mậu dịch hai chiều đã tăng từ 14,2 tỷ USD năm 2003 đến 22,5 tỷ USD năm 2005. Theo tài liệu của Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund, IMF) thì đến năm 2005 Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ tư của Ma-lai-xi-a, sau Mỹ, Xing-ga-po và Nhật. Tuy nhiên từ năm 2000 nhập siêu của Ma-lai-xi-a đối với Trung Quốc đã tăng dần; và đến năm 2005 nhập siêu của Ma-lai-xi-a đối với Trung Quốc là 3,9 tỷ USD. Một lý do cho việc nhập siêu nầy là vì hàng chế biến của Trung Quốc quá rẻ và làm cho các doanh nhiệp Ma-lai-xi-a rất khó cạnh tranh.[22] Tuy nhiên, chính phủ Ma-lai-xi-a cũng rất lạc quan về quan hệ kinh tế với Trung Quốc và cả hai chính phủ đều đặt mục tiêu mậu dịch hai chiều sẽ tăng lên đến 50 tỷ USD năm 2010. Xuất khẩu nhiên liệu của Ma-lai-xi-a sang Trung Quốc sẽ giúp Ma-lai-xi-a giảm tỷ lệ nhập siêu vì Ma-lai-xi-a là một trong những nước xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (liquified natural gas, LNG) nhiều nhất trên thế giới. Tháng 11 năm 2006 hãng dầu quốc doanh (Petronas) của Ma-lai-xi-a thắng thầu cung cấp cho Thượng Hải mỗi năm 3 triệu tấn LNG trong 25 năm với giá 25 tỷ USD. Và đây là hợp đồng lớn nhất giữa hai nước.[23]
Ma-lai-xi-a đối đãi rất tế nhị với Trung Quốc. Một ví dụ là từ năm 2000 Ma-lai-xi-a đã nới rộng các hạn chế về thị thực và để cho công nhân Trung Quốc vào ra Ma-lai-xi-a một cách dễ dàng. Kết quả là số du khách từ Trung Quốc đến càng ngày càng tăng. Năm 2003 có 350 ngàn du khách Trung Quốc đến thăm Ma-lai-xi-a và năm 2006 con số nầy đã tăng đến 439 ngàn. Thêm vào đó là Ma-lai-xi-a đã cho rất nhiều sinh viên Trung Quốc vào học tại các đại học và cao học Ma-lai-xi-a. Năm 2003 có 11 ngàn sinh viên Trung Quốc ghi tên học tại các đại học Ma-lai-xi-a, tức là khoảng 25% tổng số các sinh viên nước ngoài tại Ma-lai-xi-a. Số du khách và sinh viên to lớn kể trên đem đến cho Ma-lai-xi-a một số thu nhập đáng kể. Nhưng con số to lớn ấy cũng gây lên những quan tâm về an ninh vì có hàng vạn công dân Trung Quốc ấy không chịu về nước và một là trốn ở lại trái phép hay dùng Ma-lai-xi-a để rồi đi đến nước thứ ba.[24]
Đối với các vấn đề khác ̶ như Đài Loan, eo biển Malacca, và an ninh khu vực ̶ Ma-lai-xi-a cũng đã sử sự rất khôn khéo để làm cho Trung Quốc vui lòng.[25] Thủ tướng Abdullah Badawi đã thường tuyên bố là ông không coi Trung Quốc là một mối đe dọa và bộ trưởng quốc phòng Ma-lai-xi-a thường cho rằng Trung Quốc là một đồng minh của ASEAN. Tháng 4 năm 2007 bộ trưởng quốc phòng Ma-lai-xi-a tuyên bố trước quốc hội Ma-lai-xi-a là việc Trung Quốc tăng cường các lực lượng hải quân không có nghĩa là Trung Quốc có tham vọng bành trướng ở Á Châu. Các quan chức và các chính khách Ma-lai-xi-a thường lập đi lập lại luận điểm nầy và những ai nghĩ rằng Trung Quốc là mối đe dọa thì không phát biểu trước công chúng.[26]
Một trong những vấn đề an ninh tồn tại giữa Ma-lai-xi-a và Trung Quốc là tranh chấp về quần đảo Trường Sa. Năm 1980 Ma-lai-xi-a tuyên bố chủ quyền trên 12 đảo trong quần đảo Trường Sa và từ đó đến nay đã chiếm đóng 5 đảo. Trong thập kỷ 1980 Ma-lai-xi-a đã mua nhiều chiến hạm và máy bay hiện đại để phòng giữ các đảo khu vực trong quần đảo Trường Sa mà Ma-lai-xi-a đã tuyên bố thuộc về chủ quyền của họ. Trung Quốc đã không có phản ứng gì mạnh đối với Ma-lai-xi-a một là vì sợ tổn thương quan hệ chính trị và kinh tế với Ma-lai-xi-a. Hai là những khu vực mà Ma-lai-xi-a tuyên bố chủ quyền cách Trung Quốc quá xa trong khi quân đội Ma-lai-xi-a có đủ sức phòng vệ các khu vực ấy trong khi không quân Trung Quốc chưa có đủ khả năng để trợ lực cho các cuộc đổ bộ dành lấy các đảo nầy.
Vì những lý do vừa kể trên, Trung Quốc và Ma-lai-xi-a đã cố gắng cải thiện quan hệ quân sự với nhau. Tháng 9 năm 2005 hai nước đã ký một bản “Ghi nhớ về đồng ý trên phương diện hợp tác quân sự” (Memorandum of Understanding on Defense Cooperation) để có những trao đổi trong các hoạt động quân sự. Nhưng khi Trung Quốc đề nghị bán các hệ thống vũ khí, kể cả các chiến thuyền, cho Ma-lai-xi-a thì Ma-lai-xi-a đã lễ phép từ chối. Trong khi đó thì Ma-lai-xi-a vẫn tiếp tục mua vũ khí của Mỹ, Anh và Nga vì những vũ khí nầy tốt hơn và tối tân hơn những vũ khí chế tạo tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, Ma-lai-xi-a đã cố gắng duy trì một cách rất im lìm sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.[27]
Mặc dầu bề ngoài ra vẻ chống Mỹ, tiền nhiệm của Thủ tướng Abdullah đã bí mật ký một hiệp định với Mỹ để cho các chiến thuyền của hải quân Mỹ và các máy bay quân sự của Mỹ có thể được sửa chữa và tiếp vận tại Ma-lai-xi-a. Hiệp định nầy ̶ gọi là “Cross Servicing and Acquisitions Agreement ̶ được giữ trong bí mật cho đến năm 2005 khi chính quyền ông Abdullah ký gia hạn hiệp định nầy trong 10 năm. Theo một số nhận xét thì, nói chung, quan hệ quân sự của Ma-lai-xi-a với Mỹ quan trọng hơn bất cứ những quan hệ gì Ma-lai-xi-a có với Trung Quốc. Mỗi năm các chiến thuyền của Mỹ thường viếng thăm các cảng của Ma-lai-xi-a; hải quân Ma-lai-xi-a và hải quân Mỹ mỗi năm đều tập trận với nhau; các đội lặn của hải quân và bộ binh Mỹ thường tập luyện với các đội Ma-lai-xi-a; và lính huấn luyện chiến trận trong rừng Ma-lai-xi-a. Các khâu quan hệ quân sự của Ma-lai-xi-a với Mỹ ̶ cũng như với Anh, Ô-xtrây-li-a, Niu-di-lân qua cái hiệp định gọi là “Five Power Defense Arrangement, FPDA” ̶ chứng tỏ một cách rất rõ ràng là Ma-lai-xi-a muốn có một lực lượng đối trọng trước một Trung Quốc đang lên và đang bành trướng ảnh hưởng. Vì thế, tuy Ma-lai-xi-a cố gắng mềm dẽo và tế nhị với Trung Quốc để duy trì quan hệ tốt, Ma-lai-xi-a cũng có chính sách phòng hờ. Do đó, Ma-lai-xi-a vẫn tiếp tục cảnh giác đối với các khu vực tranh chấp ở quần đảo Trường Sa và cố gắng duy trì sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Á Châu.[28]
Nói chung thì các nước Đông Nam Á đều có các chính sách phòng hờ riêng của mình và phần lớn đều đang chạy đua vũ trang, đặc biệt là mua hay đóng tàu ngầm. Tờ Sunday Telegraph, ngày 4 tháng 2 năm 2007 cho biết rằng In-đô-nê-xia đã tuyên bố là sẽ cho đóng 12 chiếc tàu ngầm tối tân để hạ thủy khoảng năm 2024. Tờ báo cho biết là In-đô-nê-xia đã mua nhiều tầm ngầm hơn bất cứ nước nào cùng cỡ: 4 chiếc loại Kilo chạy bằng dầu diesel của Nga với giá là 200 triệu USD mỗi chiếc và hai chiếc của Hàn Quốc với giá 750 triệu USD. Xing-ga-po định có 6 chiếc tàu ngầm khoảng năm 2016. Ma-lai-xi-a đã đặt mua hai chiếc tàu ngầm Scorpene của Pháp. Và Việt Nam muốn có hai hay là 3 chiếc tàu ngầm hạng Kilo của Nga.[29] Như đã trình bày phía trên, tàu ngầm có hiệu lực lớn trong việc chống các tàu trên mặt nước. Nhưng sự chạy đua vũ trang này có nguy cơ gây ra những đụng độ vô tình mà hậu quả là không có thể lường trước được.
Do đó, thái độ của Mỹ là làm sao kéo tất cả các lực lượng hải quân trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương hợp tác để bảo vệ các dường thông thương trên biển, đặc biệt là qua eo biển Malacca và Biển Đông. Cựu Đô đốc Eric A. McVadon viết trong một bài đăng trong China Brief ngày 13 tháng 6 năm 2007 rằng Đô đốc Michael Mullen, tổng tư lệnh chiến dịch của hải quân Mỹ (U.S. Chief of Naval Operations), đã mời Trung Quốc hợp tác, qua phó đô đốc và tư lệnh quân đoàn hải quân Trung Quốc tên Wu Shengli, với một “Hải Quân Nghìn Thuyền” (“Thousand Ship Navy”). Hải Quân Nghìn Thuyền nầy là kiểu hợp tác tự nguyện trong một mạng lưới hải quân đa quốc gia. Theo cựu Đô đốc McVadon thì lời mời của Đô đốc Michael Mullen được giới quân sự Trung Quốc chú ý và Đô đốc Wu Shengli cho biết rằng ông thích đề nghị nầy và sẽ bàn thêm với Đô đốc Mullen khi ông nầy sang thăm Trung Quốc vào trung tuần tháng 6 năm 2007. Một viên chức cao cấp của hải quân Trung Quốc có nhiều quan hệ với giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc cũng cho Đô đốc McVadon biết hồi tháng 4 năm 2007 là họ ủng hộ việc hợp tác tập trận giữa hải quân Mỹ và Trung Quốc trong việc bảo vệ an ninh của các đường thông thương trên biển.[30]
Theo Đô đốc McVadon thì những đề nghị hợp tác song phương lại được Đô đốc Timothy Keating, chỉ huy trưởng hải quân Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương, lập lại trong khi ông đến thăm Bắc Kinh và gặp Đại tướng Guo Boxiong, phó chủ tịch cao nhất của Quân ủy Trung ương của Trung Quốc. Đô đốc Keating và Đại tướng Guo đều muốn có thêm trao đổi quân sự để phát triển quan hệ song phương. Một chi tiết khá quan trọng trong buổi tọa đàm với Đại tướng Guo là Đô đốc Keating nói ông ta thấy việc Trung Quốc muốn phát triển một hạm đội hàng không mẫu hạm cũng “dễ hiểu”. Ông nhấn mạnh sự khó khăn và rắc rối trong việc phát triển và điều hành một chiếc hàng không mẫu hạm và nói tiếp rằng nếu Trung Quốc muốn thì Mỹ sẽ sẵn sàng giúp đỡ trong các lãnh vực được đề cập đến. Nhưng phản ứng của một số quan chức và chuyên gia quân sự Trung Quốc là nhiều lắm thì Mỹ cũng chỉ truyền đạt suông một số kinh nghiệm điều hành thôi chứ Mỹ còn lâu mới bỏ cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc và chịu chuyển giao các công nghệ hải quân cho Trung Quốc. Theo một tờ báo Hông Kông, Trung tướng Yang Chunchang của Viện Khoa Học Quân Sự tại Bắc Kinh ông ta rất nghi ngờ về những gì Đô đốc Keating đã nói và ông ta cho rằng việc Mỹ muốn giúp đỡ là chỉ muốn nạy ra những bí mật mà thôi. Đô đốc McVadon kết luận rằng những phản ứng như trên chứng tỏ là hai bên cần phải cố gắng rất nhiều để tạo tin tưởng lẫn nhau. Nhưng ít ra Đô đốc Mullen và Đô đốc Keating cũng đã khởi đầu một quá trình và đã gây chú ý đến sự cần thiết của hợp tác. Theo Đô đốc McVadon, để có thể thành công thì bất cứ một cuộc hợp tác hải quân nào cũng cần một nền tảng quan hệ song phương được cải thiện và sự hợp tác rộng rãi hơn giữa Trung Quốc và Mỹ với các nước khác trong khu vực.
Nói tóm lại, yêu cầu chiến lược của Mỹ là duy trì an ninh trên biển Thái Bình Dương, nhất là trên các đường giao thương qua khu vực Đông Nam Á và Biển Đông. Mỹ có thể can thiệp đơn phương hay hợp tác và phối hợp với các lực lượng quân sự khác để bảo vệ an ninh chung trên biển trong khu vực trên. Nhưng điều nầy không có nghĩa là Mỹ hay các lực lượng hải quân khác sẽ can thiệp khi có đụng độ giữa các nước tranh chấp các đảo trong khu vực Biển Đông. Giải pháp quân sự không phải là giải pháp an ninh và an toàn. (http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_NgoVinhLong.htm)
Một vị tướng Trung Quốc nói với báo Anh rằng bất cứ cường quốc nào cũng muốn có hàng không mẫu hạm.Thiếu tướng Tiền Lợi Hoa, Giám đốc Văn phòng Đối ngoại Bộ Quốc phòng, nói rằng nếu Trung Quốc có hàng không mẫu hạm thì sẽ không dùng nó để vươn ra toàn cầu.Phát biểu của ông được đưa ra vào đúng lúc có tin đồn đoán nói Trung Quốc sẽ cho đóng hàng không mẫu hạm đầu tiên của mình dù vị thiếu tướng không xác nhận chuyện này.Sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc thu hút sự quan tâm của Đài Loan và tại vùng biển Nam Trung Hoa nơi Trung Quốc đòi chủ quyền lãnh thổ.Trong bài trả lời phỏng vấn với báo Anh, tờ Financial Times (FT), Tướng Tiền nói:"Hải quân của bất cứ cường quốc nào cũng có ước mơ có một hàng không mẫu hạm hoặc nhiều hơn,""Câu hỏi không còn là có nên có hàng không mẫu hạm không, mà là sẽ làm gì với nó.”Nhưng ông cũng nói rằng "Hải quân các cường quốc với hơn 10 đội tàu có tàu sân bay là soái hạm, đi kèm với các mục tiêu chiến lược sẽ có tiêu chí khác với những nước chỉ có một hoặc hai chiếc để bảo vệ bờ biển." "Thậm chí nếu một ngày chúng tôi có hàng không mẫu hạm, thì khác với những quốc gia kia, chúng tôi sẽ không dùng nó vào mục tiêu toàn cầu."Theo tờ báo Anh trích lời những phụ tá của tướng Tiền, đây là cuộc phỏng vấn đầu tiên được dàn xếp bởi chính Bộ Quốc phòng tại trụ sở của họ.Tờ báo cũng nói rằng dù ông nhắc đến Hoa Kỳ, Tướng Tiền Lợi Hoa đã nêu bật sự khác biệt giữa cách sử dụng tàu sân bay của Trung Quốc một khi họ sở hữu một chiếc với cách vận hành 11 hàng không mẫu hạm của Mỹ. Có yên tâm không?Tờ báo Anh nói lời trấn an của Tướng Tiền không làm yên tâm những nước trong vùng vốn lo ngại về việc Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có lực lượng hải quân đủ khả năng thực hiện các chiến dịch tầm xa.Theo tờ FT, ông không muốn bình luận trực tiếp về việc Trung Quốc đã quyết định có đóng hàng không mẫu hạm cho mình hay chưa.Tuy nhiên, tờ báo nói "Trong tuyên bố rõ ràng nhất từ trước tới nay của Bộ Quốc phòng về vấn đề này, ông ta nói rõ Trung Quốc có quyền làm thế”.Ông cũng nói chuyện Phương Tây yêu cầu Trung Quốc đóng góp ngày càng nhiều cho các chiến dịch gìn giữ hòa bình mà lại cùng lúc đòi Trung Quốc cắt giảm mua sắm và phát triển khả năng quân sự là “vô lý”.Tướng Tiền Lợi Hoa được trích lời nói:"Hoa Kỳ và EU một mặt yêu cầu chúng tôi gửi thêm quân gìn giữ hòa bình ra nước ngoài, một mặt lại vẫn duy trì cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Tôi nghĩ điều ấy thật vô lý,"Trong năm nay Ngũ Giác Đài nói Trung Quốc nghiên cứu về hàng không mẫu hạm và có khả năng đóng được một chiếc vào cuối thập niên này. Tạp chí chuyên về quốc phòng Jane's Defence Weekly đưa tin vào tháng trước rằng Quân Giải phóng đang huấn luyện 50 sinh viên để trở thành phi công của hải quân có khả năng điều khiển phi cơ cánh gấp từ hàng không mẫu hạm.Hồi đầu năm, Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Timothy Keating được trích lời nói rằng các cấp chỉ huy quân sự Trung Quốc rất quan tâm đến việc có một hàng không mẫu hạm.Trong tháng Ba 2007, một tờ báo được Trung Quốc hậu thuẫn tại Hong Kong nói Trung Quốc có thể có hàng không mẫu hạm đầu tiên năm 2010. | |||||||
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2008/11/081117_chinaaircraftcarrier.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2008/11/081118_background_chinese_naval.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2007/07/070722_chinanavy.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/07/080723_oil_china_vietnam.shtml
Tham vọng hải quân của Trung Quốc
("Nhìn ra thế giới"- Tác giả: Olivier Zajec/ Le Monde Diplomatique September 2008) Metamorph (Thành viên X-cafevn) chuyển ngữ
Năm trăm năm trước, kình địch rõ rệt thống trị các đại dương trên thế giới là hải đội thám hiểm của đế quốc Trung Hoa với hàng nhiều thế kỷ vượt trội mặt kỹ thuật so với mọi đối thủ. Nhưng hoàng đế Trung Quốc quyết định quay lưng với biển cả. Người Trung Quốc sẽ không phạm vào lỗi lầm ấy hai lần. Năm 2006, truyền hình trung ương Trung Quốc trình chiếu một loạt tài liệu, Daguo Jueqi (1) (Đại quốc quật khởi, Sự xuất hiện của những quyền lực vĩ đại) được kể như thành công ngay tức khắc. Nó bao gồm những cuộc phỏng vấn với các sử gia, các lãnh đạo thế giới và được đánh giá là chính xác đủ để được đem vào kênh Lịch Sử (History Channel) chiếu trên khắp nước Mỹ. Mười hai màn, mỗi màn dài 50 phút cắt nghĩa các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp, Anh, Đức, Nhật, Nga và Mỹ phát khởi, lớn mạnh và suy tàn. Người chịu trách nhiệm chương trình, giáo sư trường đại học Bắc Kinh, ông Tiền Thừa Đán (Qian Chengdan) hiểu khát vọng quần chúng trong đất nước ông: Vì Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, giống nòi Trung Quốc đã được hồi sinh và một lần nữa trên sân khấu thế giới (2). Đại quốc quật khởi nhìn vào các thắng lợi trên mặt biển của các thế lực chính trong nỗ lực thống trị thế giới. Bất kể dân số hay tầm vóc lãnh thổ của nước phát khởi, chiến lược của họ luôn là mở rộng ngoại giao, kiểm soát những thủy đạo chính yếu và những căn cứ ngoài khơi, am tường kỹ thuật, hoạt động hải quân và gieo ảnh hưởng. Những điều này là những ưu tiên mới của chính phủ Trung Quốc, đặt kế hoạch Kỹ Thuật Cao ngành Hàng Hải năm 2000 song song với sự lớn mạnh của Hải Quân Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (People's Liberation Army Navy - PLAN). Thực dụng chủ nghĩa và Ngoại GiaoTài liệu chia ra nhiều thập niên về ý thức hệ đảng Cộng Sản Trung Quốc và tiết lộ chủ nghĩa thực dụng hiện tại của Trung Quốc, nhằm tránh sự mù quáng đầy ngạo mạn của thời kỳ yếu nhược thế kỷ 19. Để ảnh hưởng thế giới trong cung cách thuận hòa (harmonious and peaceful, hai từ chính dùng trong chính sách hiện tại), để mở rộng Trung Quốc cho thế giới, cũng như thế giới với Trung Quốc - dường như là niềm tin hiện tại của Hồ Cẩm Đào. Trong một nỗ lực vô tiền khoáng hậu về ngoại giao hải quân năm 2007, các tàu chiến Trung Quốc viếng thăm các hải cảng Pháp, Úc, Nhật, Tân Gia Ba, Tây Ban Nha, Mỹ và tham gia các cuộc thao diễn đa quốc gia chống hải tặc. Tham vọng "quyền lực nhung" (soft-power ambitions) của Trung Quốc nên đặt trong quan điểm tập trung vào bối cảnh khu vực. Cũng có hai vấn đề chính. Một là quan tâm của Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền đối với Đài Loan và phạm vi hải phận Trung Quốc trong khu đặc miễn kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ). Nếu Trung Quốc được thỏa mãn những tham vọng của họ, họ sẽ được tiếp cận những vùng bao la ở Thái Bình Dương và những thủy đạo Đông Nam Á bên ngoài vùng bán đảo Đông Dương. Quan tâm thứ hai là bây giờ Trung Quốc đã trở nên quốc gia nhập cảng nhiên liệu đứng hàng thứ nhì trên thế giới, là sự bảo vệ hành lang nhiên liệu của họ. Vấn đề lãnh thổ sẽ là yếu tố quyết định cho hiện tại. Bắc Kinh đã thành công trong vấn đề xác định biên giới với 13 nước lân cận một cách hữu nghị (3). Chỉ có 2 nước công khai chống đối là Bhutan và Ấn Độ. Nhưng theo ông Loic Frouart, Uỷ viên chiến lược vụ Bộ Quốc Phòng Pháp, "14.500 cây số biên giới lãnh hải phô bày nhiều tiềm ẩn khủng hoảng hay va chạm quyền lợi. Có nhiều xung đột chưa giải quyết" (4). Trung Quốc đòi chủ quyền hoàn toàn trên 4 triệu cây số vuông lãnh hải. Nhà cầm quyền Trung Quốc sẽ tái chiếm Đài Loan bằng võ lực nếu cần thiết. Đây vẫn còn là lập trường chính thức mặc dầu cuộc tuyển cử tổng thống ở Đài Loan, ứng viên đảng Quốc Dân, ông Mã Anh Cửu (Ma Ying Jeou) đã làm dịu căng thẳng giữa hai bên eo biển. Cùng với sự trổi dậy mau chóng của hải quân Trung Quốc và sự tiết giảm một cách tương đối tính theo trọng tải của hải quân Mỹ, Trung Quốc đang vận dụng các phương tiện tâm lý cũng như quân sự để đi kèm theo sự phát triển dẫn đến việc sát nhập Đài Loan một cách hòa bình. Điều này vừa là thuyết phục lẫn chiêu dụ. Hỏa tiễn nhắm vào đảo quốc và thái độ của Mỹ với Đài Loan, ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập, trong khi sự lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Đài Loan và Hoa Lục đang chuẩn bị tinh thần cho công dân một chuyển tiếp Hồng Kông có thể xẩy ra. Tuy nhiên, Đài Loan không chỉ là quân cờ trong ván cờ vĩ đại vùng biển của Trung Quốc. Trung Quốc cũng đang xung đột với Nhật trong quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu tiếng Trung Hoa, Nhật gọi là Sensaku) gần đảo Xung Thằng (Okinawa), nơi có một căn cứ hải quân Mỹ. Đông Kinh cả quyết rằng vùng đặc miễn kinh tế (EEZ, Exclusive Economic Zone) của họ trải dài 450 cây số về hướng Tây quần đảo, trong khi Bắc Kinh ganh đua bằng cách tuyên bố chủ quyền toàn lục địa từ lãnh thổ của họ vươn ra đến biển Đông Hải. Nó không phải điều ngẫu nhiên mà khu vực này chứa một tiềm năng 200 tỉ mét khối hơi đốt. Trung Quốc cũng xung đột với Đài Loan, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei và Nam Dương về quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và quần đảo Đông Sa (Pratas); tranh giành quần đảo Hoàng Sa (Paracel, Trung Quốc gọi là Tây Sa) với Việt Nam và Đài Loan. Trung Quốc cũng tranh giành hải phận với Nhật và Việt Nam cũng như chỉ tiêu đánh cá với Nam Hàn, Nhật, Việt Nam và Phi Luật Tân. Tham vọng hải quân với chiến lược trường kỳ Chúng ta có khuynh hướng quân rằng Trung Quốc luôn sinh động trong khu vực. Thập niên 1950 hải quân Trung Quốc chiếm lại hầu hết những hòn đảo cận duyên của Tưởng Giới Thạch. Năm 1974 họ lợi dụng chiến tranh giữa hai miền Việt Nam để chiếm đoạt Hoàng Sa và năm 1988 chiếm đoạt hòn đảo Chữ Thập, nằm phía Nam đảo Nam Yết (Fiery Cross reef ) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tất cả các nước trong khu vực, một thời là chư hầu của đế quốc Trung Hoa, đều e sợ tham vọng hải quân Bắc Kinh. Năm 1980, điểm quan trọng chiến lược của đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing) (5) trước tiềm năng dầu mỏ và đánh cá ở Nam Hải là bảo đảm sự vãng lai cho hạm đội Trung Quốc. Trung Quốc cần áp đặt sự hiện diện của họ về phía Tây của một thủy đạo xanh lục (green sea line) từ Nhật đến Mã Lai qua Đài Loan và Phi Luật Tân. Kình địch chính là hải quân Nhật mà Trung Quốc đã thăm dò bằng những thâm nhập tiềm thủy đĩnh (gồm cả một vụ với tiềm thủy đĩnh nguyên tử năm 2004). Bây giờ Bắc Kinh định chọc thủng đường ranh này và xuyên qua vùng nước cạn ở Đông và Nam Hải vào vùng thủy đạo xanh dương (blue water line) của một vịnh thứ nhì từ Nhật tới Nam Dương qua Guam, trục hải, không lực Mỹ trong vùng Tây Thái Bình Dương. Trở ngại chính cho kế hoạch bành trướng của hải quân Trung Quốc tới thủy đạo xanh dương (Hạm đội 7 Mỹ kiểm soát) chính là Đài Loan. Tháng Giêng năm 2008 bộ trưởng quốc phòng Đài Loan, ông Ko Chen Heng, lên án các hoạt động hải quân Trung Quốc trong kênh Bashi, một thông thủy hẹp giữa Đài Loan và Phi Luật Tân. Một khi Trung Quốc giải quyết xong vấn đề tiếp cận ngoài khơi, hải quân sẽ có thể dành thì giờ để bảo đảm 4 hành lang năng lượng ở Đông Nam Á. Hành lang thứ nhất gồm những tàu dầu dưới 100 ngàn tấn từ Phi Châu và Trung Đông đến Nam Hải qua eo biển Malacca. Hành lang thứ nhì là những tàu dầu khổng lồ từ cùng những nơi sản xuất trên qua Sundra và eo biển Gaspar (6), và hành lang thứ ba từ Nam Mỹ qua biển Phi Luật Tân. Hành lang thứ tư là một đường tùy chọn từ Trung Đông và Phi Châu giửa eo biển Lombok và Macassar, Phi Luật Tân và Tây Thái Bình Dương trước khi đến cảng Trung Quốc. Malacca là nút thắt chính với 80 phần trăm nhiên liệu nhập cảng băng qua eo biển, khiến Trung Quốc có thể bị nghẽn trong xung đột. Nó chuyển hướng tiếp cận bằng cách phát triển hệ thống đường rầy nối các nước thuộc Hiệp Hội các quốc gia Á Châu (ASEAN, Association of Southeast Asian Nations), kết thúc đường ống dẫn dầu Hoa-Miến giữa Sittwe và Côn Minh (7), giúp việc phát triển năng lực sản xuất khí đốt ngoài khơi trong vùng Đông Nam Á, đặc biệt ở Thái Lan và Miến Điện, và ngay cả việc dự trù xây dựng một kinh đào ngang qua giải đất Kra Nam Thái Lan, nơi bị bọn ly khai Hồi Giáo Thái Lan đe dọa. Chiến lược xâu chuỗi ngọc Những dự án này khó và sẽ chỉ giảm bớt phần nào sự lệ thuộc của Trung Quốc vào các hành lang. Sự cần thiết đảm bảo chúng chống lại hải tặc và tham vọng của Mỹ, Nhật, Ấn Độ khiến Trung Quốc phải củng cố chiến lược hải quân viễn duyên của họ. Bắc Kinh đang xây dựng một "chuỗi ngọc trai" gồm những căn cứ vĩnh viễn dọc theo bờ biển Ấn Độ Dương và các thủy đạo dẫn đến Malacca: Marao ở Maldives, quần đảo Coco ở Miến Điện, Chittagong ở Bangladesh và Gwadar ở Pakistan, trong khi chờ để xây dựng thêm các căn cứ bờ biển ở Phi Châu, đang sẵn sàng ký kết đầu tư với Trung Quốc. Trung Quốc không thiếu công nhân hay ngân sách để tổ chức và bảo trì các căn cứ trong các nước đồng minh. Họ còn dám tặng không tàu chiến cho nước nào bảo vệ nhiên liệu ngoài khơi của họ (8). Không kể Mỹ, kẻ tin rằng Thái Bình Dương sẽ là một khu vực chiến lược chính trong bán thế kỷ tới, Trung Quốc có hai địch thủ đáng gờm: Ấn Độ và Nhật. Ấn Độ và Trung Quốc, hai quốc gia lớn nhất về dân số, luôn lo ngại lẫn nhau - Không phải là ít theo quan điểm Ấn Độ, bởi vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan trong vấn đề phiến loạn Kashmir và tiếp tục cung cấp vũ khí cho Islamabad. Ấn Độ mong muốn vị thế của Trung Quốc (một cường quốc khu vực với một khuynh hướng toàn cầu) và có tham vọng hàng hải để đối chọi. hạm đội của Ấn Độ đang phát triển và mục tiêu chiến lược đề ra là làm chủ Ấn Độ Dương. Chiến lược chuỗi ngọc của Bắc Kinh là một sự xâm lấn. Để đặt cược vào chiếu bạc, Ấn Độ chế tạo hai mẫu hạm, sẽ hạ thủy năm 2010, chiếc thứ ba đang trù tính mua lại mẫu hạm cũ của Nga. Hạm đội tiềm thủy đĩnh của Ấn Độ dùng kỹ thuật Pháp trội hơn của Trung Quốc về phẩm chất. Hai nước đang trong giai đoạn dò xét lẫn nhau và cẩn trọng tránh xung đột. Có những tiến bộ ngoại giao giữa hai lực lượng hải quân và thao diễn quân sự phối hợp từ khi hai nước ký kết một hiệp ước chung vào tháng Tư năm 2005. Bang giao giữa Nhật và Trung Quốc đã qua thời kỳ căng thẳng. Hạm đội Nhật mạnh và tân tiến hơn Trung Quốc và đã tham dự thao diễn quân sự với hải quân Mỹ nhiều năm. Nhưng tranh chấp trên quần đảo Điếu Ngư tiết lộ một nước mất bình tĩnh, gây cản trở bởi hiến pháp hòa bình thời hậu thế chiến, hiện bị những phe nhóm quốc gia chủ nghĩa phê phán. Nhật chưa có biện pháp đối phó với Trung Quốc. Không chỉ một mình Nhật và Ấn Độ lo ngại về áp lực Trung Quốc. Những nước nhỏ như Mã Lai, Nam Dương, tân Gia Ba cũng đang củng cố và hiện đại hóa hạm đội của họ. Họ sợ rằng, Mỹ đang sa lầy ở I - Rắc và A Phú Hãn, Trung Quốc sẽ nắm quyền thống trị trong khu vực và một tình thế trôi qua có lẽ trở nên rõ rệt. Xưởng đóng tàu làm việc thâm công (overtime)Xưởng đóng tàu Trung Quốc đang nắm bắt cơ hội và làm việc cật lực từ Hoàng Hải đến Nam Hải. Các căn cứ hải quân, bến sông, đê biển, căn cứ phòng vệ tiềm thủy đĩnh (gồm căn cứ nguyên tử Sanya trên đảo Hải nam) đang phát triển và canh tân khi kinh tế quốc gia đang kỳ nở rộ, mà nền ngoại thương của nó lệ thuộc 90/100 vào đường biển. Năm 2006 những kỹ nghệ liên quan đến biển chiếm 10/100 tổng sản lượng quốc gia và 7 trong số 20 hải cảng quan trọng nhất trên thế giới là của Trung Quốc. Nỗ lực Trung Quốc gồm cả mục tiêu quân sự lẫn dân sự. Cùng với những kiến tạo hải quân, kế hoạch kỹ thuật cao về hàng hải được tài trợ song song những dự án củng cố sự tự quản của hạm đội, như hệ thống định vị bằng vệ tinh, gọi là Bắc Đẩu (Beidou), hệ thống giám sát hàng hải và xưởng đóng tàu. Năm 1995 Trung Quốc đứng hàng thứ ba về kỹ nghệ đóng tàu dân sự sau Nhật và Đại Hàn và đang ráo riết đuổi kịp. Với 2 tập đoàn kinh doanh khổng lồ, công ty đóng tàu Quốc Doanh và công ty Kỹ Nghệ đóng tàu Trung Quốc (China State Shipbuilding Corporation and China Shipbuilding Industry Corporation) Trung Quốc có triển vọng trở nên quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới năm 2020. Kế hoạch quốc gia Trung Quốc không phân biệt tàu quân sự hay dân sự và cả hai được đóng tại cùng một xưởng. Thứ hạng 8 hải lực lớn nhất thế giới(Source: Annuaire des Flottes de Combat, 2008 - Đơn vị tính : Ton)Bạch thư quốc phòng thứ 5 của Trung Quốc phổ biến năm 2006 (9), cung cấp một bộ khung về tổ chức hàng hải hình thành hồi đầu thập kỷ 1990. Nó chuyển giao ưu tiên từ quân đội mà theo truyền thống là ưu tiên số một, sang Hải và Không quân. Ủy ban trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và quân ủy trung ương, hiện có nhiều sĩ quan Hải, Không Quân hơn trước (10). Năm 2007 đã có non 25/100 sĩ quan Hải, Không quân so với 14/100 năm 1992. Không chi tiêu nào được dành dụm. Ba hạm đội Trung Quốc (Hạm Đội Đông Hải đặt chỉ huy sở ở Thượng Hải, Hạm Đội Nam Hải ở Trạm Giang và Hạm đội Bắc Hải ở Thanh Đảo), mỗi hạm đội có căn cứ hải quân với oanh tạc cơ và chiến đấu cơ cơ hữu. Nhiều hệ thống hiện đại đã được phân phối, chẳng hạn khu trục hạm phòng không Lữ Dương (Luyang) hay chiến hạm Mã An Sơn (Ma Anshan), phiên bản mới của chiến hạm Giang Vệ (Jiangwei ) thời thập kỷ 1990. Trung Quốc có hơn 500 Tuần Duyên Đỉnh ở cuối thập niên 1970 và một nửa trong số vẫn còn lưu dụng cho đến nay nhưng hạm đội viễn duyên đã tăng đến con số 60 chiến hạm (11). Một nỗ lực đáng kể cũng đã được thực hiện trong lãnh vực chiến hạm thủy bộ với nhiều trăm tàu đang được đóng biến tham vọng chiếm đoạt Trường Sa hay Đài Loan thành hiện thực. Trục Lôi Hạm, Phóng Pháo Hạm tầm xa và những tàu dầu cũng đang được chế tạo. Không thiếu những trợ giúp ngoại quốc, từ Khinh Tốc Đỉnh Úc cho đến Khu Trục Hạm Sovremenny Nga và Tiềm Thủy Đỉnh Kilo Ý, hệ thống chiến đấu Pháp và hải pháo Hoà Lan. Trung Quốc nhập cảng, nhái mẫu, chế biến và thường thường làm kinh ngạc nước cung cấp, cải thiện những chiến cụ họ muốn. Trong vài lãnh vực như chiến cụ điện tử hay những động cơ hiệu quả nhất và hệ điều khiển chiến đấu, Trung Quốc lệ thuộc vào ngoại quốc, đặc biệt vào nguồn cung cấp từ Nga. Vai trò chính của Tiềm Thủy Đỉnh Tiềm thủy đỉnh đóng vai trò chính trong đồ án hàng hải toàn cầu của Trung Quốc. Mặc dầu những tin đồn dai dẳng về việc mẫu hạm tân trang Varyag mua của Nga và mẫu hạm đang chế tạo trong một xưởng đóng tàu hàng nhiều năm, Trung Quốc không có một mẫu hạm nào, và chỉ những Tiềm Thủy Đỉnh hiện đại có thể hy vọng làm nản chí hạm đội 7 Mỹ vẫn canh phòng Đài Loan từ căn cứ Hải Quân Guam, Nhật và Đại Hàn. Hạm đội Trung Quốc nổi tiếng về những Tiềm Thủy Đỉnh nguyên tử tốc chiến và một Tiềm Thủy Đỉnh phóng hỏa tiễn tầm xa (SLBN, Submarine Launched Ballistic Missile) có thể mang 12 đến 16 phi đạn nguyên tử với tầm xa 3500 cây số. Ngoài ra, còn có 30 Tiềm Thủy Đỉnh chạy dầu cặn và hơn 20 tàu lặn khác đang được chế tạo. Hạm đội 7 Mỹ lo ngại về khối vũ khí này và các đô đốc đang thỉnh cầu quốc hội lẫn Tòa Bạch Ốc, viện dẫn hạm đội Tiềm Thủy Đỉnh Trung Quốc sẽ vượt trội con số chiến hạm Mỹ vào năm 2020. Những vị có ảnh hưởng, như nghị sĩ Duncan Hunter (12) mới đây đã đặt vấn đề. Tiềm Thủy Đỉnh nguyên tử Trung Quốc thực hiện nhiều chuyến tuần phòng hơn các năm trước. Những quan ngại này được phản ảnh trong phúc trình hằng năm của Ngũ Giác Đài về quân lực Trung Quốc (13) nhưng chúng cần được đặt trong viễn ảnh. Không ai biết năng lực của những Tiềm Thủy Đỉnh Trung Quốc và nó có thể rất tồi. Hải quân Mỹ có 53 Tiềm Thủy Đỉnh nguyên tử, gấp 2 lần số lượng bất cứ quốc gia nào, cũng như có 12 trong số 15 mẫu hạm toàn thế giới và một không đoàn vô địch chuyên chống tàu ngầm. Vấn đề chót của bản phổ biến Mỹ về duyệt xét quốc phòng tứ niên (14)có phần xuống giọng và bàn thảo về hợp tác hơn là đối đầu. Tình trạng ở Nam Hải không là một cuộc chạy đua võ trang có tuyên bố nhưng một chống đối địa lý khác nhau giữa các hạm đội Ấn Độ, Mỹ, Úc, Nhật và hạm đội Pakistan, Trung Quốc. Tham vọng hàng hải Trung Quốc là hậu quả do niềm thất vọng của một quốc gia đáng lẽ thống trị thế giới trong công cuộc toàn cầu hóa đầu tiên 500 năm về trước nhưng đã bị bọn man di mọi rợ da trắng tiếm đoạt. Trung Quốc đã am tường thiên văn về hàng hải và sử dụng la bàn, phát minh mỏ neo, in những bản đồ hàng hải, thuyền trưởng, centre-board năng động (kiến trúc dưới lườn với tấm cản giữ cho tàu khỏi lật - Lời người dịch) và có lẽ sáng chế những con tàu khổng lồ nhiều buồm với giàn kéo buồm bằng trục (15). Khoang tàu được chia thành nhiều buồng kín nước và bánh lái rời. Tất cả những thứ ấy được canh tân và hoàn hảo bởi người da trắng và thường là mối nhục của người Trung Quốc. Triều đại nhà Minh (1358-1644), Trung Quốc bỏ dở các công cuộc chinh phục biển khơi ở thế kỷ 15 của thái giám đô đốc Trịnh Hòa với hơn 300 thương thuyền thám hiểm các đại dương (16). Đóng những chiếc tàu vượt đại dương có thể bị tử hình. Sai lầm này đã được học và vinh quang quá khứ bây giờ được nâng niu ấp ủ trở lại. Những diễn đàn chính thức cổ động sự hiện diện của Trung Quốc tại châu Phi kể câu chuyện của Mwamaka Shariff lali, một phụ nữ ở đảo Lamu, Kenya - nơi những mảnh đồ gốm thời nhà Minh được khảm vào những kiến trúc địa phương - là con cháu của các thủy thủ Trung Quốc đắm tàu trên hòn đảo trước khi Trung Quốc bỏ dở những cuộc viễn thám biển. Chị đã được tặng một học bổng ở trường đại học Trung Quốc và được mời dự lễ mừng "ngày hàng hải Trịnh Hòa" ở tỉnh Giang Tô, điểm xuất phát của hải đội đế quốc (17). Mỹ đã gia tăng các phát động trao đổi và hợp tác với hải quân Nhật và Ấn Độ cũng như Trung Quốc nhằm kiểm soát sự bành trướng to lớn của các nước ấy bằng mọi cách. Nỗ lực mới nhất của Mỹ là Khởi Động Hợp Tác Hàng Hải Toàn Cầu, trong đó, mỗi đồng minh, gồm cả Trung Quốc được mời đóng góp cho một hạm đội 1000 tàu để tiểu trừ hải khấu. Thiếu tướng Dương Nghi, giám đốc trường đại học Quốc Phòng Trung Quốc về nghiên cứu chiến lược, không tin rằng Trung Quốc sẽ chấp nhận đề xuất này trước khi tìm ra những động cơ thầm kín và ý đồ lâu dài của nó (18). Trung Quốc muốn ngăn cản bất cứ điều gì nhằm cướp đoạt cơ hội thứ nhì trong lịch sử để trỗi dậy như một quyền lực bá chủ hàng hải. Trung Quốc không quên cuộc chiến tranh nha phiến, cũng không quên mối nhục quân Anh đốt phá Viên Minh ngự uyển năm 1860, và sẽ không nhịn trước đe dọa hay áp chế. Họ đang dè chừng. Dù còn lâu mới có thể vượt trội hải quân Mỹ, họ được lịch sử chỉ dẫn và mỗi thành tựu hải quân mới đạt được một giá trị mang tính biểu tượng (không cụ thể). Năm 1989 chiến hạm đầu tiên Hải Quân Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc.
Hôm 20.11.2008 vừa qua, Ủy Ban Thẩm Định Kinh Tế và An Ninh Mỹ - Trung (U.S.-China Economic and Security Review Commission) của Hoa Kỳ đã trình lên Quốc Hội một bản báo cáo nhấn mạnh đến việc Trung Quốc đang thực hiện chương trình tình báo đặc biệt nhắm vào hệ thống tin học của Mỹ.
Ủy Ban nói trên là một ủy ban lưỡng đảng được Quốc Hội thiết lập năm 2000, gồm 12 người, để phân tích về quan hệ kinh tế và an ninh quốc gia giữa hai nước. Phúc trình năm 2008 của Ủy Ban dày 393 trang, trong đó đã đưa ra 45 khuyến cáo cần được thực hiện để chống lại hoạt động gián điệp của Trung Quốc.
Trước khi đưa ra các khuyến cáo này, Ủy Ban đã đến nghiên cứu ở Trung Quốc, Đài Loan, Nam Hàn và Nhật Bản, mở 8 cuộc điều trần và tham khảo với cơ quan Cộng Đồng Tình Báo Hoa Kỳ (United States Intelligence Community, được viết tắt là IC).
Người Việt chống “đặc công cộng sản nằm vùng” thường không biết đến IC và vai trò quan trọng của tổ chức này, nên cái gì cũng đem CIA hay FBI ra hù nhau, do đó cần nói rõ thêm: IC bao gồm nhiều cơ quan (argencies) và tổ chức thuộc hành pháp hoạt động riêng rẽ hay phối hợp, có trách nhiệm lãnh đạo các hoạt động tình báo cần thiết trong các lãnh vực quan hệ đối ngoại và an ninh quốc gia. Người điều khiển IC là “Giám Đốc Tình Báo Quốc Gia” (Director of National Intelligence, viết tắt là DNI). Đây là cơ quan được thiết lập do Đạo Luật Cải Cách Tình Báo và Ngăn Ngừa Khủng Bố năm 2004 (Intelligence Reform and Terrorism Prevention Act of 2004) do chính Tổng Thống điều khiển và kiểm soát.
Dĩ nhiên, các cơ quan tình báo của Hoa Kỳ như CIA, FBI, USD, NGA, NRO, NSO. DIA, INR, v.v., đều nằm trong IC.
CHUYỆN GIÁN ĐIỆP CỘNG SẢN!
Gần như ngày nào trên các diễn đàn Internet và website của “người Việt chống cộng” cũng có bài tố cáo người này người kia hay nhóm nọ nhóm kia là đặc công cộng sản nắm vùng. Tiêu chuẩn để phân biệt “địch” và “ta” được rập khuôn theo chế độ ở trong nước: “Nói hay làm theo ta là quốc gia, nói hay làm trái lại là cộng sản nằm vùng”.
Chúng tôi nhớ lại, vào sáng 29.10.2003, ba nhân viên FBI đã đến nói chuyện với các nhà báo ở Little Saigon, báo động về việc nhà cầm quyền CSVN đã gởi nhiều cán bộ tình báo sang Hoa Kỳ để thâu nhận tin tức. Với những tin tức này, CSVN có thể dùng để tuyển mộ những người làm việc có lợi cho trong nước, dù những người đó vô tình không biết. Tôi nhớ nhà báo Đỗ Sơn có hỏi rằng theo FBI, cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ có những nhược điểm nào khiến CSVN dễ xâm nhập, một nhân viên FBI nói rằng một trong những nhược điểm quan trọng nhất là sự chia rẽ.
Sau đó, FBI đã cho phổ biến một thông cáo yêu cầu cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ biết được các hoạt động tình báo của cộng sản nằm vùng tại Hoa Kỳ xin viết thư về số 180 Grant Ave. suite 1100, Oakland, CA 94162, hay gọi điện thoại số (510) 451 – 9782.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, FBI lại phải mở cuộc họp báo và tuyên bố hủy bỏ lời kêu gọi nói trên vì có quá nhiều thư tố cáo nhảm nhí được gởi đến FBI. Thậm chí có người còn tố cáo một ông chủ báo ở San José là điệp viên cộng sản nằm vùng vì trên báo ông ta thường dùng chữ thành phố Hồ Chí Minh thay vì thành phố Sài Gòn!
Hiện tượng trên cho chúng ta thấy nhiều người Việt không hiểu thế nào là gián điệp và gián điệp thường được gởi ra ngoại quốc để làm những công tác nào. Họ chỉ muốn muợn cái thông cáo của FBI để đánh phá hay hù doạ nhau. Những khuyến cáo của Ủy Ban Thẩm Định Kinh Tế và An Ninh Mỹ – Trung và một số vụ gián điệp Trung Quốc mà chúng tôi sẽ kể lại dưới đây sẽ giúp nhiều người hiểu rõ gián điệp cộng sản được gởi ra ngoại quốc để làm các nghiệp vụ gì và hoạt động như thế nào.
NHỮNG KHUYẾN CÁO CHÍNH
Bản báo cáo của Ủy Ban Duyệt Xét Kinh Tế và An Ninh Hoa Kỳ - Trung Quốc cho biết Trung Quốc hiện đang gia tăng các nỗ lực gián điệp điện toán qua các cuộc tấn công nhắm vào cơ quan chính phủ Hoa Kỳ, các công ty đấu thầu quốc phòng và các công ty khác ở Hoa Kỳ.
Bản báo cáo cho biết Trung Quốc đã tiến xa và làm chủ được các hình thức chiến tranh tin học rất tinh vi mà Hoa Kỳ khó có thể ngăn chặn được, thậm chí khó phát hiện được các vụ xâm nhập.
Báo cáo cho rằng các tin tặc của Trung Quốc đã hành động với sự hỗ trợ của chính quyền Bắc Kinh. Theo ước lượng, có chừng 250 nhóm tin tặc Trung Quốc được nhà nuớc dung duỡng, nếu không nói là khuyến khích, để len lỏi vào hệ thống tin học Hoa Kỳ và gây rối loạn.
Cũng theo bản báo cáo, trong truờng hợp xảy ra tranh chấp, thế mạnh của Trung Quốc trong lĩnh vực tin học có thể làm giảm thế thống trị quân sự trong chiến tranh quy ước hiện nay của Mỹ.
Bản báo cáo cũng lưu ý rằng các chương trình không gian đang được đẩy mạnh của Trung Quốc cũng cho phép Trung Quốc nhắm vào các mục tiêu quân sự Hoa Kỳ một cách hiệu qủa hơn. Trung Quốc coi việc Hoa Kỳ phải trông cậy nhiều vào các vệ tinh trên không và kỹ thuật tin học là “cạnh sườn yếu kém” của Hoa Kỳ.
Bà Larry Wortzel, Chủ Tịch Ủy Ban, nói: Trung Quốc hiện đang đánh cắp nhiều tài liệu bí mật từ các hệ thống máy điện toán Hoa Kỳ. Ủy Ban đề nghị Quốc Hội cung cấp ngân khoản cho các chương trình của chính phủ nhằm theo dõi và bảo vệ các hệ thống máy điện toán.
ĐIỆP VIÊN THỜI NAY
Ngày nay, điệp viên kiểu James Bond trèo tường, cạy cửa sổ, leo vào trộm một xấp hồ sơ, rồi gấp rút nhảy ra, lao vào một chiếc xe hơi đang rồ máy đợi sẵn và phóng đi... rất ít khi xẩy ra. Càng khó tìm thấy điệp viên đánh nhau hàng ngày trên Internet bằng những ngôn từ bẩn thỉu... Điệp viên ngày nay hoạt động khoa học và rất tinh vi. Một thí dụ cụ thể: Một hôm nào đó, bạn mở computer ra, thấy có email của một người lạ gởi đến, bạn mở ra và đọc thấy một vài câu giới thiệu vớ vẩn. Bạn xoá đi, nhưng mọi sự đã quá muộn. Khi bạn mở email ra, trong đó đã gài sẵn một spyware, tức là một sofware dọ thám mạng mà bạn không thấy. Spayware đó đã lấy trộm các hồ sơ trong máy của bạn và gởi ngay hồ sơ đó về cho người gởi.
Đây chỉ là một thí dụ thôi. Các bạn đừng lo, vì đối phương không gởi spyware tới để lấy những bài tố cộng trong máy điện toán của bạn làm gì. Họ thường gởi tới các cơ quan an ninh, các cơ sở kỷ thuật cao... để ăn cắp tài liệu. Hiện nay, máy điện toán của những cơ quan về an ninh và kỷ thuật cao đều có cài đặt Anti-spyware rất tinh vi để chống ăn cắp tài liệu, nhưng thỉnh thoảng đồi phương vẫn có thể vô hiệu hoá các Anti-spyware đó và lấy được tài liệu như thường. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy thỉnh thoảng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ lại la lên tài liệu bị đánh cắp!
Trong thời chiến tranh lạnh, báo chí Tây phương thường nói đến điệp viên KGB, ngày nay họ đang cố gắng phát hiện một loại điệp viên mới, đó là các sinh viên và nghiên cứu sinh Trung Quốc. Một số sinh viên hay nghiên cứu sinh này được cho tham gia vào một số công trình nghiên cứu của các nước Tây phương. Một số khác, nhờ tài năng xuất chúng, đã được chọn làm nhân viên tập sự trong các hãng lớn của Tây phương. Mục tiêu của các thành phần này là theo dõi tin tức tình báo về công nghệ và thương mại và dùng các phương tiện, kể cả hợp pháp và bất hợp pháp, để thu thập và chuyển về nước nhằm giúp Trung Quốc trở thành một siêu cường mới.
Tờ Sunday Telegraph của Anh vừa đăng tin một điệp viên hàng đầu của người Trung Quốc đã đào ngũ tại Bỉ. Sự tiết lộ của điệp viên này đã phá tan hoạt động của hàng trăm điệp viên Trung Quốc khác đang làm việc trong ngành công nghiệp Châu Âu ở nhiều cấp độ khác nhau. Tờ Le Monde của Pháp cho biết thêm: một nhóm điệp viên Trung Quốc có tên là “Hiệp Hội Sinh Viên và Nghiên Cứu Sinh Trung Quốc tại Leuven” đang hoạt động ở Bĩ đã bị phát hiện. Đài phát thanh Ekot của Thuỵ Điển loan tin cảnh sát tại Thuỵ Điển đã nghi ngờ các khách Trung Quốc được mời sang nghiên cứu đã đánh cắp các kết quả nghiên cứu chưa được công bố và chưa đăng ký sáng chế của một viện nghiên cứu Thuỵ Điển.
Ông Rodger Baker, chuyên gia phân tích cao cấp thuộc tổ chức Stratfor cho hay các sinh viên tốt nghiệp, và một số giáo sư làm việc trong ngành công nghiệp kỹ thuật, có vẻ như là những thủ phạm chính. Theo ông, nếu nhà cầm quyền Trung Quốc tuyển lựa những người của quân đội Trung Quốc để làm gián điệp, Hoa Kỳ sẽ khám phá ra một cách nhanh chóng khi xét đơn xin nhập cảnh Mỹ của những người này. Vì thế, Trung Quốc thường chọn những người dân bình thường rồi huấn luyện cho họ khả năng để họ có thể vào Hoa Kỳ. Một khi đã vào Mỹ, những người này sẽ học hỏi, làm việc trong một công ty nào đó, thu thập kinh nghiệm, rồi trở lại Trung Quốc và mang theo một số kỹ thuật. Nhờ vậy, kỷ nghệ của Trung Quốc có thể tiến nhanh, không phải tốn nhiều công sức nghiên cứu. Nếu một vài người này bị chính quyền Hoa Kỳ phát hiện và bắt giữ, Trung Quốc sẽ nói: “Ồ! Đó là chuyện cá nhân. Chỉ có cá nhân người đó làm bậy chứ không phải quân đội Trung Quốc!”
Việc bắt và truy tố các sinh viên và nghiên cứu sinh đánh cắp tài liệu không phải là chuyện dễ dàng. Một nữ nhân viên Trung Quốc, 22 tuổi, bị bắt tại Pháp sau khi bị hãng sản xuất phụ tùng xe hơi Valeo cáo buộc nhân viên này đã "xâm phạm bất hợp pháp cơ sở dữ liệu". Hãng này đã thuê nữ nhân viên này vào làm thực tập sinh. Tuy nhiên, sau đó, cô ta đã được thả ra vì không có bằng chứng cô ta đã ăn cắp tài liệu và gởi về Trung Quốc.
Một yều tố khác khiến các nước Tây phương phải dè đặt khi đối phó với các gián điệp Trung quốc, đó là quyền lợi kinh tế của họ ở Trung Quốc.
Ông Chen Yonglin, cựu bí thư thứ nhất của Toà Tổng Lãnh Sự Trung Quốc tại Sydney, Australia, mới đây đã đào ngũ, đã tiết lộ rằng chỉ riêng ở Australia, Bắc Kinh đã có tới 1000 điệp viên. Tuy nhiên, sau đó ông Chen cho biết các luật sư của ông ta khuyên ông không nên nói thêm vì sợ ảnh hưởng tới cơ hội xin tỵ nạn chính trị của ông.
Tại Hoa Kỳ, một số điệp viên Trung Quốc bị khám phá đã khai rằng gia đình của họ ở trong nước đã bị áp lực và có thể gặp nguy hiểm nếu như họ không làm được những gì mà những người chỉ đạo họ yêu cầu.
Trong vòng 25 năm qua, Trung Quốc đã gửi khoảng 600.000 sinh viên ra nước ngoại quốc trong chính sách rõ ràng là nhằm phát triển kỹ năng khoa học, công nghệ và kinh doanh.
Các viên chức Hoa Kỳ nói Trung Quốc có khoảng 3000 “công ty bình phong" tại Hoa Kỳ, hầu hết là nhằm thu thập bí mật công nghệ và quốc phòng.
Trong cuốn "War by Other Means" (Chiến tranh bằng những phương tiện khác), một cuốn sách nói về hoạt động tình báo, tác giả John Fialka đã nhận định rằng các cộng đồng Á châu thường có cái nhìn ít tính pháp lý hơn so với một số quốc gia khác. Thế nhưng Trung Quốc khác với nhiều nước khác vì các đơn vị làm kinh tế của nước này vẫn nằm giữa chính phủ và quân đội. Họ tin rằng ảnh hưởng quân sự sẽ sớm diễn ra theo sau sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục cũng như quyền lực chính trị của Trung Quốc.
Tuy nhiên, dù ở trong chính phủ, trong giới kinh doanh hay trong các viện nghiên cứu..., người ta thường ngần ngại không muốn làm điều gì để Bắc Kinh phật lòng, dẫn đến đe doạ khả năng tiếp cận thị trường to lớn của nước này, chưa kể tới việc Trung Quốc có rất đông sinh viên có tài năng.
Các nhóm hữu khuynh tại Hoa Kỳ và các đảng phái đối lập tại Australia, Canada và những nơi khác, đang cảnh báo các nước Tây phương rằng sẽ đến một ngày người ta phải hối tiếc vì đã để Trung Quốc lợi dụng sử cởi mở và bao dung của mình.
MỘT VÀI VỤ ÁN GIÁN ĐIỆP
Bây giờ chúng tôi sẽ kể lại một số vụ án để độc giả có thể thấy gián điệp Trung Quốc đã hoạt động như thế nào.
1.- Vụ án “Greg” Chung
Đầu năm 2008, FBI đã trình bày trước công luận hai hồ sơ gián điệp Trung Quốc. Trong tháng 2, FBI đã bắt 4 người, trong đó có hai người gốc Trung Hoa và một người gốc Đài Loan. Họ sống tại Alexandria (Virginia), New Orleans (Louisiana) và thành phố Orange (California).
Vụ quan trọng nhất là vụ Dongfan “Greg” Chung, 72 tuổi, bị tố cáo về tội ăn cắp những dữ kiện bí mật của một công ty quốc phòng.
Chung sinh tại Trung Hoa, có quốc tịch Hoa Kỳ, làm việc cho công ty không gian Rockwell International từ năm 1973 cho đến khi Boeing mua lại Rockwell vào năm 1996. Chung về hưu vào năm 2002. Nhưng một năm sau, ông lại được tuyển làm việc theo hợp đồng với Boeing cho đến tháng 9 năm 2006. Trong nhiều năm làm việc, ông có thẻ đặc biệt để có thể mở xem những hồ sơ bí mật.
Theo hồ sơ của Bộ Tư Pháp, Chung đã sớm hoạt động gián điệp cho Trung Quốc kể từ năm 1979. Bắc Kinh đã giao cho ông ta nhiệm vụ thu thập những dữ kiện về các chương trình hàng không và không gian của Hoa Kỳ, kể cả các chương trình liên quan đến phi thuyền con thoi, những phi cơ quân sự và phi cơ dân sự. Cũng theo hồ sơ của Bộ Tư Pháp, trong một lá thư gởi cho các cán bộ, Chung từng viết rằng ông muốn “đóng góp cho đất mẹ.”
Trong hơn 18 năm, Chung đã về Trung Quốc nhiều lần để thuyết trình về phi thuyền con thoi và những chương trình khác. FBI đã theo dõi Chung khoảng một năm kể từ khi một kỹ sư gốc Trung Hoa khác bị điều tra về tội cung cấp tài liệu cho Bắc Kinh.
Chung đã bị truy tố về 14 tội, trong đó có những tội như gián điệp kinh tế, hoạt động cho một chính phủ ngoại quốc một cách bất hợp pháp, cản trở công lý, khai man với điều tra viên của FBI, v.v.
2.- Vụ án Gregg Bergersen
Trong vụ điều tra thứ nhì, ông Gregg Bergersen, 51 tuổi, là một phân tích gia của Bộ Quốc Phòng, sống tại Alexandria, Virginia, đã bị bắt. Hồ sơ Bộ Tư Pháp cho biết ông ta đã bán tài liệu quốc phòng cho Tai Kuo, 58 tuổi, một nhân viên bán bàn ghế tại New Orleans.
Tai Kuo là người Mỹ gốc Đài Loan, đã có quốc tịch Hoa Kỳ. Sau khi nhận tài liệu từ tay của Bergersen, Tai Kuo giao lại cho Yu Xin Kang, 33 tuổi, một người Trung Hoa giữ vai trò môi giới giữa Kuo và chính quyền Bắc Kinh. Kang cũng bị bắt tại New Orleans.
Tài liệu mà Bergersen giao cho Tai Kuo đã trình bày tất cả những chương trình bán vũ khí hoặc kỹ thuật quân sự của Hoa Kỳ dành cho Đài Loan trong vòng 5 năm sắp tới.
Hồ sơ ghi nhận rằng trong thời gian từ tháng 3 năm 2007 đến tháng 2 năm 2008, Tai Kuo đã nhận thông tin từ một chuyên viên của bộ Quốc Phòng Mỹ có tên là Gregg Bergersen, rồi chuyển các thông tin đó cho một quan chức Trung Quốc. Để đổi lại, chuyên viên Bergersen đã nhận được một số quà tặng, tiền mặt, và các chuyến du lịch. Còn Kuo đã nhận được khoảng 50 ngàn đôla của viên chức Trung Quốc.
3.- Vụ án Lili
Một cô gái Trung Quốc tên là Lili, 24 tuổi, đã bị kết tội gián điệp tại Paris vì thu thập các tin tức dữ kiện của một công ty chế tạo phụ tùng xe hơi lớn của Pháp.
Lili đã bị bắt vào tháng 5 năm 2005 sau khi công ty Valeo trình báo rằng dữ kiện nhạy cảm của công ty đã bị đánh cắp từ một chi nhánh về nghiên cứu và phát triển của công ty.
Lili rất thông minh và có trình độ học vấn cao. Cô nói được các tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và khá về tiếng Ả Rập. Cô đã học xong đại học về toán, vật lý ứng dụng và thủy động lực tại Pháp, và đang thực tập 4 tháng ở công ty Valeo. Sở dĩ người ta nghi ngờ cô vì cô hay đi vòng vòng trong office với cái laptop và có vẻ bỏ thì giờ nhiều quá cho máy computer.
Khi khám xét nhà của Lili, cảnh sát bắt gặp 6 máy computers và hai ổ cương liệu chứa các thông tin nhạy cảm, kể cả chi tiết về những xe cộ do khách hàng công ty Veleo giao cho công ty thực hiện.
Một tòa án ở Versailles đã hạ nhẹ tội của Lili. Cô không bị kết tội “gián điệp kinh tế”, một tội danh khá nặng, mà chỉ bị tội “lợi dụng lòng tin”, vì công tố viện không chứng minh được cô ta đã chuyển những tài liệu nói trên cho một tổ chức ở ngoại quốc.
4.- Vụ án “Mata Hari Trung Quốc”
Bà Katrina Leung là công dân Mỹ gốc Trung Hoa, giàu có và được nhiều người biết đến trong xã hội trung và thượng lưu tại quê hương thứ hai của bà. Tuy nhiên, vào tháng 4/2003, một vụ tai tiếng đã làm chấn động giới tình báo Mỹ và thế giới khi Leung bị cáo buộc làm gián điệp cho Trung Quốc.
Katrina Leung đãï bị bắt giữ vào ngày 9.4.2003 và cuộc điều tra sơ khởi đã đưa ra ánh sáng một số tình tiết đủ để các nhà bình luận thời sự mệnh danh Katrina Leung là “Mata Hari Trung Quốc” (Mata Hari: tên nữ điệp viên lừng danh trong Thế chiến I).
Năm 1982, với uy tín của một nhà vận động chính trị sáng giá, từng gây quỹ ủng hộ đảng Cộng Hòa, Katrina Leung đã được FBI tuyển dụng làm điệp viên, với mật danh là “Parlor Maid”. Nhiệm vụ chủ yếu của bà là cung cấp cho FBI những thông tin mật của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực.
Người được FBI giao trách nhiệm móc nối và bố trí công tác cho Leung là một viên chức phản gián đặc trách Trung Quốc tên là James J. Smith, lúc đó đã 61 tuổi, làm việc tại FBI từ tháng 10/1970 đến tháng 11/2000.
Việc móc nối bà Katrina Leung hoàn tất vào năm 1982 với mức thù lao là 1,7 triệu USD. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai người không diễn ra đúng như FBI đã dự đoán. Với sắc đẹp khả ái, nữ điệp báo Katrina Leung đã sớm trở thành tình nhân của Smith. Sau một thời gian, cơ quan phản gián phát hiện Leung lấy cắp hai tài liệu mật trong cặp da của Smith. Trong hai tài liệu bị đánh cắp, có một tài liệu liên quan đến cuộc điều tra của FBI mang mật danh “Royal Tourist”, và một công văn mật về “truyền thông điện tử”.
FBI bắt giữ bà Leung vào ngày 9.4.2003 và truy tố bà về tội phản bội quyền lợi của nước Mỹ bằng cách cung cấp tài liệu mật cho Trung Quốc. Nếu kết quả điều tra xác nhận sự thật đúng như lời cáo buộc của FBI, bà Leung có thể nhận lãnh một bản án đến 50 năm tù. Ngày 20.6.2003, bị cáo được tại ngoại hầu tra sau khi nộp một khoản tiền thế chân lên đến 3 triệu USD. Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng buộc bà không được ra khỏi nhà, ngoại trừ trường hợp đi gặp luật sư hoặc ra hầu tòa. Đồng thời với quy định này, bà phải đeo thường trực một chiếc vòng kiểm soát điện tử, giúp FBI dõi được mọi hình thức di chuyển của bà.
Về phần James J. Smith, mặc dù đã về hưu từ năm 2000, ông cũng bị khởi tố về tội thiếu trách nhiệm, để hồ sơ mật lọt vào tay gián điệp nước ngoài, và có thể nhận lãnh một bản án đến 40 năm tù nếu kết quả điều tra chứng minh ông có tội. Smith cũng được tại ngoại sau khi nộp khoản tiền thế chân 250.000 USD.
Tuy nhiên, ngày 7.1.2005, Tòa án liên bang ở California đã đưa ra quyết định miễn tố cho bà Leung, vì lý do không tìm ra chứng cứ đương sự chuyển về Trung Quốc các tài liệu mật lấy từ cặp da của James J.Smith. Bà Leung được miễn tố thì Smith cũng không có tội, ngoại trừ sự sơ suất trong lúc làm nhiệm vụ.
Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích quyết định nói trên của Tòa án California:
Giả thuyết thứ nhất: Phải chăng chuyện bà Leung chuyển hồ sơ mật ra ngoại quốc là có thật, nhưng FBI - và cao hơn nữa là Bộ Tư pháp và Chính phủ Mỹ - không muốn bị mất mặt vì một sự sơ suất quá sơ đẳng như vậy nên đã né tránh việc kết án đương sự?
Giả thuyết thứ hai: Tài liệu mật mà FBI giao cho James J.Smith để trong cặp chỉ là tài liệu gỉa hay không quan trọng để thử xem bà Katrina Leung có phải là một điệp viên hai mang (double agent) hay không. Trong thực tế, nếu bà Katrina Leung không làm double agent, bà rất khó có những tin mà FBI yêu cầu.
Giả thuyết thứ ba: Phải chăng đã có một cuộc thương lượng ngoại giao giữa Washington và Bắc Kinh?
CON ĐƯỜNG TRƯỚC MẮT
Ngày nay không còn làn răn giữa Trung Cộng và Đài Loan và cũng không còn làn răn giữa Trung Cộng và người Hoa tại Hoa Kỳ. Cả ba đang kết hợp với nhau để khai thác công việc kinh doanh. Lợi dụng tình trạng này, Trung Cộng đã chinh phục một số ngườì Hoa tài giỏi tại Hoa Kỳ đánh cắp tài liệu về kỷ thuật và quốc phòng cho họ.
CSVN chưa xoá được làn răn giữa chính quyền trong nước và người Việt tỵ nạn ở hải ngoại nên có nhiều vướng mắc khi thực hiện những ý định của họ. CSVN cũng chưa có những công nghệ kỷ thuật cao như Trung Quốc và cũng không thể tiến tới cạnh tranh quân sự với Hoa Kỳ, nên trong lúc này, CSVN chưa xây dựng một hệ thống gián điệp kiểu Trung Quốc. Nhưng chắc chắn Hà Nội có kế hoạch tinh vi để làm cho các thành phần chống cộng ở hải ngoại tự phân hoá rồi đi đến tan rã. Những người thông thường không thể nhận ra được kế hoạch này và có khi còn góp phần giúp Hà Nội thực hiện kế hoạch đó nhanh hơn, vì lúc nào họ cũng cứ tưởng mình đang cầm súng chống cộng!
Về gián điệp Trung quốc, ông Rodger Baker nhận định rằng chính phủ Hoa Kỳ dưới quyền của Tổng Thống Bush có vẻ như quyết tâm làm ngơ vấn đề này. Hoa Kỳ chỉ lợi dụng và khai thác chuyện gián điệp Trung Quốc để làm áp lực khi mối quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng. Theo ông Rodger Baker, sở dĩ Hoa Kỳ không nêu vấn đề này ra là vì Hoa Kỳ không muốn quyền lợi của mình bị phương hại.
Lữ Giang
Cuộc khủng hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đã bùng nổ từ năm 1989 và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6/1989 xảy ra vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu như CHDC Đức, Ba Lan, Ru-ma-ni, Hung, Tiệp, Hà Lan1 đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10/1989, TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức, khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Ru-ma-ni Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy, vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới” của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn.
Trước tình hình ấy, trong nội bộ lãnh đạo ta đã nảy sinh những ý kiến khác biệt trong nhận định về sự kiện Thiên An Môn cũng như về những biến đổi dồn dập tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô. Nổi lên là ý kiến nhấn mạnh mặt xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, phải bằng mọi giá bắt tay ngay sau Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác. Chính điều đó đã tạo nên bước ngoặt khá đột ngột trong thái độ của ta đối với Trung Quốc. Suy nghĩ đơn giản của ta là không có lý gì Việt Nam lại ngủng ngỉnh với Trung Quốc trong khi Liên Xô đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (tháng 5/1989). Lào cũng đã thoả thuận trao đổi đại sứ trở lại với Trung Quốc và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đánh dấu bằng cuộc đi thăm chính thức Trung Quốc của Kayson Phomvihan2, tổng bí thư Đảng NDCM Lào (hình trên; nguồn: freelao.tripod.com), tháng 10/1989.
Chính là thông qua cuộc nói chuyện với Kayson ngày 7/10/89 mà Đặng Tiểu Bình đã bộc lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình đối với Việt Nam: phân hoá Việt -Lào, Việt-CPC, Việt-Xô và phân hoá cả nội bộ Việt Nam. Đặng nói với Kayson rằng:"Việt Nam đã có biểu hiện chống Trung Quốc từ khi Hồ Chí Minh còn sống; rằng sau khi thắng Mỹ, Lê Duẩn trở mặt chống Trung Quốc, xâm lược Campuchia, Việt Nam đi theo Liên Xô, đưa quân vào Campuchia, nên mới có chuyện Trung Quốc đánh Việt Nam. Lúc đầu Trung Quốc cho là vì Brejnev xúi giục nên Việt Nam xâm lược Campuchia, nhưng chính là do Việt Nam có ý đồ lập Liên bang Đông Dương, không muốn Lào, Campuchia độc lập. Việt Nam chống Trung Quốc vì Trung Quốc là trở ngại cho việc lập Liên bang Đông Dương …"
Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Đặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh; Đặng kể lại khi làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963, đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam sang Hồng Kông để đi thăm Bắc Kinh gặp nhau, khen anh Linh là “người tốt, sáng suốt và có tài”; nhờ Kayson chuyển lời hỏi thăm anh Linh; khuyên Nguyễn Văn Linh nên giải quyết dứt khoát vấn đề Campuchia, nếu làm được việc này thì sẽ khôi phục được uy tín của Việt Nam. Cho đây là việc Việt Nam phải làm, vì những gì Việt Nam đang làm là sai lầm; mong muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trước khi ông ta nghỉ hưu… Về điều kiện bình thường hoá quan hệ Trung-Việt, Đặng nhấn mạnh Việt Nam phải rút hết quân, rút triệt để, rút thật sự khỏi CPC thì sẽ có bình thường hoá quan hệ (tuy lúc đó ta đã kết thúc đợt rút quân cuối cùng khỏi CPC từ ngày 26/9/1989).
Theo thông báo của đại sứ Lào tại Trung Quốc, trong 70 phút nói chuyện với Kayson, Đặng nói về Việt Nam và quan hệ Trung-Việt tới 60 phút.
Ngày 21/10/1989 BCT ta đã họp để nhận định về phát biểu của Đặng Tiểu Bình khi tiếp Kayson. Cuộc họp đã đi đến kết luận: trong lúc Trung Quốc đang còn găng với ta, ta cần có thái độ kiên trì và thích đáng, không cay cú, không chọc tức nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. Cần tiếp tục thực hiện đường lối Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị, cần thấy cả mặt xã hội chủ nghĩa và mặt bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Trong khi cố kéo Trung Quốc, ta cần đồng thời hoạt động trên nhiều hướng; củng cố đoàn kết chặt chẽ với Lào, phân hoá Mỹ, phương Tây, ASEAN với Trung Quốc.
Theo phương đó, ngày 6/11/1989, anh Thạch đã chuyển qua đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ba ngày sau, anh Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp ngày 6/11 và đề nghị: phía Việt Nam sẵn sàng gặp lại phía Trung Quốc ở cấp bộ trưởng hoặc thứ trưởng ngoại giao tại Hà Nội hoặc Bắc Kinh trong tháng 12/1989. Nhưng Trung Quốc không trả lời thông điệp của Tổng bí thư ta lẫn thư của anh Thạch.
Mãi đến ngày 12/1/1990, đại sứ Trung Quốc mới gặp anh Thạch chuyển thông điệp miệng của phía Trung Quốc trả lời TBT Nguyễn Văn Linh, vẫn đặt điều kiện cho việc nối lại đàm phán với ta:
Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo khác của Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ Trung-Việt. Vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu làm cho quan hệ hai nước xấu đi đến nay chưa được cải thiện. Việc khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước chưa có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề CPC. Đồng chí Đặng Tiểu Bình có nêu ra là việc Việt Nam rút quân sạch sẽ, triệt để và việc CPC lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải quyết. Phía Trung Quốc sẵn sàng suy xét đề nghị của VN về việc mở vòng thương lượng mới ở cấp thứ trưởng, nếu Việt Nam chấp nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên Hiệp Quốc chủ trì có 4 bên CPC tham gia để kiểm chứng việc rút quân VN và lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu trong thời kỳ quá độ.
Từ 26/2 đến 1/3/1990 tại thủ đô Inđônêxia đã họp Hội nghị không chính thức về CPC (IMC-Informal Meeting on Campuchia). Dự họp ngoài các bên CPC, VN, Lào và 6 nước ASEAN (như họp JIM, còn có thêm đại diện Tổng thư ký LHQ Pháp và Ô-tra-lia3). Hội nghị không ra được tuyên bố chung vì Khơ-me đã dùng quyền phủ quyết.
Ngày 8/3/1990, cố vấn Lê Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề CPC: cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề CPC. Phải giải quyết với TQ, nếu không thì không giải quyết được vấn đề CPC. Không thể gạt Khơ-me đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ. Không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề CPC trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác. Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó.
Đến ngày 3/4/1990, Trung Quốc đột nhiên lại biểu thị hoan nghênh việc thứ trưởng Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh “kiểm tra sứ quán” và công bố tin Trung Quốc sẽ đàm phán với thứ trưởng ngoại giao Việt Nam về vấn đề Campuchia.
Lúc này CP87 đã giải thể. Các thành viên thường trực của CP87 đều đã được bổ nhiệm đi nhận trọng trách ở nước ngoài. Anh Đặng Nghiêm Hoành đã nhận quyết định đi đại sứ ở Trung Quốc. Anh Trần Xuân Mận nhận chức đại sứ ở An-giê-ri4. Anh Nguyễn Phượng Vũ trên đường đi nhận chức đại sứ ở Phi-li-pin, đã chết trong tai nạn máy bay trên bầu trời Thái Lan. Thay vào đó, Bộ Ngoại Giao đã lập Nhóm ad hoc về giải pháp Campuchia với nhiệm vụ cụ thể hơn vì vấn đề CPC đã đến lúc phải giải quyết. Nhóm vẫn do tôi phụ trách, có các anh Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, Nguyễn Can tham gia.
Nhóm Nghiên cứu giải pháp Campuchia chúng tôi nhận định có mấy lý do đã khiến Trung Quốc mềm mỏng hơn trong thái độ đối với Việt Nam về vấn đề CPC:
quan hệ Mỹ-Xô đang có chuyển động mạnh. Chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12/1989 đến tháng 5/1990, đã có 2 cuộc gặp cấp cao Xô-Mỹ. Trong khi đó quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn.
giữa Trung Quốc với Mỹ, phương Tây đang nảy sinh những mâu thuẫn về vấn đề Campuchia, chủ yếu trong vấn đề đối xử với Khơ-me đỏ. Trong các cuộc họp 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3/1990, Trung Quốc ở thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò của Liên Hiệp Quốc.
đàm phán Sihanouk-Hun-xen có tiến triển. Ngày 9/4/1990 Sihanouk có phần nhượng bộ khi đưa ra 9 điểm giải pháp, nhận lập Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao (Supreme National Council-SNC) gồm số đại diện bằng nhau của hai chính phủ, 6 của Chính phủ Nông Pênh và 6 của Chính phủ Campuchia Dân Chủ như đề nghị của Hun-xen; không đòi hỏi giải tán Nhà Nước Campuchia (SOC), tuy đòi thực quyền cai quản Campuchia trong thời kỳ quá độ phải là cơ cấu quyền lực của Liên Hiệp Quốc.
Ngày 10/4 BCT họp bàn đề án đấu tranh sách lược về vấn đề CPC do Bộ NG5 dự thảo: dùng công thức LHQ để nói về vấn đề diệt chủng và cho Khơ-me đỏ vào chính phủ liên hiệp CPC, nhận vai trò Sihanouk, lập chính phủ liên hiệp để tổ chức tổng tuyển cử… Đại đa số BCT đồng ý. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu, VN và TQ cần liên kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và cùng tác động để có một nước CPC thân thiện với TQ và VN và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đó là lợi ích chung của TQ và VN. Riêng Nguyễn Cơ Thạch nói rõ quan điểm của Ngoại Giao là cần tranh thủ TQ, song đồng thời phải chuẩn bị có 3 khả năng về thái độ của TQ:
khả năng 1: TQ cùng ta bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
khả năng 2: TQ cấu kết với Mỹ chống ta như trước.
khả năng 3: TQ vừa bình thường hoá quan hệ với ta, vừa tranh thủ Mỹ, phương Tây là chính.
Lúc đó tôi có cảm giác nhiều ủy viên BCT không tán thành quan điểm này vì đã có định hướng cùng TQ bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc.
Ngày 16-17/1/1990, thực hiện quyết định của Bộ Chính Trị theo hướng sớm làm lành với Bắc Kinh, anh Nguyễn Cơ Thạch đi Nông Pênh gặp 4 người chủ chốt trong BCT Campuchia: Heng Somrin, Chia Xira6, Hun-xen và Sor Kheng7 để cố thuyết phục bạn nên tính tới bước sách lược về vấn đề diệt chủng và không gạt Khơ-me đỏ, nhưng phía Campuchia không đồng ý vì tỏ ra muốn giữ đường lối độc lập trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, không muốn ta đàm phán với Trung Quốc về các vấn đề nội bộ của Campuchia. Bạn tỏ ra rất găng về vấn đề diệt chủng, nói nếu bộ ta sẽ không còn vũ khí gì chống các luận điểm của đối phương vu cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia”, “chính quyền Nông Pênh do Việt Nam dựng lên”. Hơn nữa chính lúc này phương Tây đang khơi lên vấn đề lên án diệt chủng.
Ngày 2/5/90 với danh nghĩa “đi kiểm tra sứ quán”, anh Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh để có cuộc “trao đổi ý kiến không chính thức” với Trung Quốc. Lần này đối tác không phải thứ trưởng Lưu Thuật Khanh mà là trợ lý bộ trưởng Từ Đôn Tín8 (hình bên; nguồn: chinavitae.org). Phụ tá cho anh Liêm là anh Đặng Nghiêm Hoành lúc này đã là đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc. Cuộc đàm phán không có mấy tiến triển về thực chất.
Về bình thường hoá quan hệ hai nước, phía Trung Quốc không mặn mà gì với gợi ý của ta về việc xích lại gần hơn nữa giữa hai nước xã hội chủ nghĩa để cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa chung trên thế giới đang lâm nguy. Trung Quốc chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn khổ chung sống hoà bình như các nước láng giềng khác.
Lần này phía Trung Quốc đi vào những vấn đề thuần tuý nội bộ của Campuchia, đòi ta đàm phán về vi phạm quyền lực của Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia (SNC) và về việc xử lý quân đội 4 bên Campuchia. Về vấn đề chính quyền Campuchia trong thời kỳ quá độ (từ khi Việt Nam rút hết quân đến khi tổng tuyển cử), Từ nói Trung Quốc thấy tốt nhất là lập một chính phủ liên hiệp 4 bên-gọi là Hội đồng dân tộc tối cao cũng được-bằng không thì phải chọn phương án giao quyền cho Liên Hiệp Quốc. Chính quyền thời kỳ quá độ này phải bao gồm cả 4 bên Campuchia (với hàm ý Khơ-me đỏ được chính thức coi là 1 bên tham chính) mới thể hiện được tinh thần hoà giải dân tộc.
Nếu các đồng chí thấy nói 4 bên có khó khăn thì nói là “các bên Campuchia” cũng được, không gạt một bên nào, không bên nào nắm độc quyền. (Trong buổi làm việc với anh Đặng Nghiêm Hoành sáng 4/5, Vụ phó Trương Thanh cũng nhắc lại ý này: Hội đồng này bao gồm đại diện của 2 chính phủ, 4 bên hay các bên Campuchia đều được). Từ nói: nếu so sánh giữa phương án chính thức liên hiệp lâm thời đỏ, Trung Quốc đề ra và phương án Liên Hiệp Quốc quản lý thì chúng tôi vẫn thấy phương án của TQ là tốt hơn. Về vấn đề diệt chủng, Từ nói có ý đe dọa là nếu cứ khẳng định Khơ-me đỏ phạm tội thì phía bên kia sẽ nói Việt Nam là xâm lược và Nông Pênh là ngụy quyền, cho nên không nên nói đến vấn đề đó nữa.
Trong đàm phán, phía Trung Quốc để lộ rõ ý đồ muốn Hội đồng Dân tộc tối cao thực tế sẽ thay thế Chính phủ Nông Pênh; còn quân đội của “4 bên” Campuchia phải tập kết vào những địa điểm được chỉ định rồi giải pháp toàn bộ; ít nhất là lúc đầu giảm quân số tới mức tối đa, mục đích là tước bỏ thế mạnh cả về chính quyền lẫn về lực lượng vũ trang của Nhà Nước Campuchia. Cách làm của Trung Quốc đúng là “một mũi tên bắn hai đích”, vừa xoá sạch thành quả cách mạng Campuchia vừa phân hoá quan hệ Việt Nam-Campuchia. Để tránh đi ngay vào chuyện hóc búa này, anh Liêm nói sẽ đem hai vấn đề này về bàn nghiên cứu thêm rồi sẽ phát biểu. Đồng thời theo chỉ thị trên, ta đã nhận Việt Nam không nói đến từ “diệt chủng” nữa và sẽ tìm một công thức khác thích hợp để nói về vấn đề đó. Phía Trung Quốc còn đề nghị lãnh đạo Việt Nam nên gặp Sihanouk như Sihanouk đã ngỏ ý để “tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giải pháp”. Đáng suy nghĩ là Từ Đôn Tín đã gợi ý là sau khi Việt Nam và Trung Quốc nhất trí được về giải pháp Campuchia thì 3 nước Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan sẽ họp lại. Điều này chúng tỏ là Thái Lan giữ một vai trò không nhỏ trong việc cùng Trung Quốc nuôi dưỡng Khơ-me đỏ và làm chảy máu Việt Nam bằng vấn đề CPC.
Phần vì tình thế thúc bách đẩy nhanh giải pháp Campuchia, phần vì hài lòng với cuộc gặp này, Tiền Kỳ Tham đồng ý đầu tháng 6 sẽ cử Từ Đôn Tín sang Hà Nội với danh nghĩa “khách của đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội” để tiếp tục trao đổi ý kiến với ta. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua phía Trung Quốc nhận sang Hà Nội đàm phán với ta, trong khi tuyệt đại đa số các đợt đàm phán Việt-Trung đều tiến hành ở Bắc Kinh. Động thái này đã được lãnh đạo ta hiểu như một cử chỉ thiện chí đặc biệt của Trung Quốc đối với Việt Nam.
1 TGT biên tập
2 (13.12.1920, Naseng - 21.11.1992, Vientiane) mẹ người Laos, bố Việt Nam, Kaysone học luật tại Hà Nội, trở về làm lãnh tụ Pathet Lao. 1975 lật đổ chính phủ hoàng gia Laos. Thủ tướng CHDCND Laos (1975-91), Chủ tịch (1991-92) - "Kaysone Phomvihan." Britannica Concise Encyclopedia. 2004. Encyclopædia Britannica Premium Service. 29 Jan. 2004 http://www.britannica.com/ebc/article?eu=394304.
3 Australia
4 Algérie
5 Ngoại Giao
6 Semdech Chea Sim, Kampuchean People's Revolutionary Party. Đến 1991, thay Heng Samrin là chủ tịch đảng với tên mới là Đảng Nhân Dân Cambodia (Cambodian People's Party, CPP)
7 Sar Kheng, Phó Thủ tướng kiêm đồng Bộ trưởng nội vụ chính phủ Cambodia
8 Xu Dunxin (1934-), Thứ trưởng ngoại giao (1991-1993); Thành viên Ủy Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc (1998-2003)










0 comments
Đăng nhận xét
Cám ơn bạn đã ghé hqson.tk. Bạn có ý kiến thắc mắc hay bình luận gì về bài viết này vui lòng viết ở đây.
Nếu bạn không có tài khoản google, vui lòng chọn "Anonymous" (người dùng nặc danh) "name"(tên hoặc địa chỉ trang web,blog bạn)
Tôi hy vọng bạn sẻ tìm đc nhiều thú vị khi tham quan blog này !...