Tổng hợp các kinh nghiệm xử trí NGẤT

Posted by Posted by HOA QUẢ SƠN On Thứ Hai, tháng 2 16, 2009

Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua, người bệnh thấy hoa mắt, chóng mặt, mắt tối sầm và sau đó không nhận thức được xung quanh. Hiện tường này thường xuất hiện khi dòng máu đến não thấp hơn mức tối thiểu hay do huyết áp giảm đột ngột.

Có nhiều nguyên nhân gây ngất, gồm cả lành tính và bệnh lý tim mạch. Có một số nguyên nhân phổ biến sau:

- Ngất do phản xạ thần kinh tim, thường gặp nhất là do thần kinh phế vị. Trước khi ngất, bệnh nhân có cảm giác buồn nôn và toát mồ hôi, sau khi ngất thường thấy mệt mỏi. Phản xạ này có thể xảy ra khi quay cổ đột ngột, mặc áo cổ chặt hoặc bàng quang rỗng sau khi đi tiểu. Cũng có một số trường hợp hiếm gặp là sau khi ho hoặc cười to.

- Ngất khi thay đổi tư thế là hiện tượng phổ biến, xuất hiện khi thay đổi tư thế từ nằm hoặc ngồi sang đứng. Người già gầy yếu và bệnh nhân đái tháo đường, hoặc những người bị mất nước do thời tiết quá nóng dễ bị ngất khi thay đổi tư thế và chịu hậu quả nặng nề nhất.

- Ngất do rối loạn nhịp: xảy ra khi nhịp tim quá chậm (dưới 30 nhịp/phút) hoặc quá nhanh (180 nhịp/phút). Nếu ngất do rối loạn nhịp tim xảy ra ở bệnh nhân có bệnh tim mạch thì nguy cơ tử vong rất cao.

- Ngất ở bệnh nhân có bệnh tim mạch: Một số bệnh lý của cơ tim, van tim, mạch máu có thể gây ra ngất, nhưng nguyên nhân thường gặp nhất là nhồi máu cơ tim. Cần chú ý tìm nguyên nhân ngất ở bệnh nhân tim mạch bởi đó thường là dấu hiệu báo trước nguy cơ tử vong.

Cách điều trị:

Khi gặp một người bị ngất, cần tránh cho bệnh nhân bị chấn thương và bảo đảm là vẫn đang tự thở, có mạch (kiểm tra động mạch cảnh ở ngay dưới hàm). Nếu người bệnh không tự thở hoặc không có mạch, phải gọi ngay cấp cứu. Nếu tự thở và có mạch, cần để bệnh nhân nằm dưới nền cứng và phẳng rồi từ từ nâng nhẹ chân lên cao, tuyệt đối không nâng ngay bệnh nhân dậy.

Đối với người có nguy cơ bị ngất do phản xạ thần kinh tim, cách tốt nhất là tránh môi trường quá nóng hoặc người quá đông. Cần uống nhiều nước, bổ sung thêm muối. Ngoài ra, có thể dùng các thuốc chẹn beta giao cảm như Propranolol, Atenolol, Metoprolol, Bisoprolol. Nếu các biện pháp trên thất bại, có thể xem xét việc cấy máy tạo nhịp. Đối với người hay bị ngất khi thay đổi tư thế, cần dùng thuốc theo chỉ định và tránh đi tất chân chặt, nằm ngủ cao đầu. Còn với trường hợp ngất do rối loạn nhịp, có thể dùng máy tạo nhịp tim nếu nhịp chậm, hoặc dùng thuốc điều chỉnh nhịp hay sóng radio trong trường hợp nhịp tim quá nhanh.

Bác sĩ Phạm Như Hùng, Sức Khỏe & Đời Sống

theo: vnexpress.net

THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI: NGẤT

Ngất là tình trạng không còn nhận biết thế giới xung quanh(mất ý thức) thoáng qua do không cung cấp máu đầy đủ cho não bởi nhiều nguyên nhân khác nhau (xem bảng dưới)

Do đặc tính đa nguyên của ngất cho nên ngất do nguyên nhân này có thể lành tính ít gây nguy hiểm tính mạng nhưng do nguyên nhân khác có thể gây đột tử. Do đó khi có triệu chứng ngất xãy ra người bị ngất cần đi đến bác sĩ để khám và làm các xét nghiệm cần thiết .

Ngất khác với đột tử là bệnh nhân còn có cơ may tỉnh dậy nếu do nguyên nhân loạn nhịp.

Những dấu hiệu nào được gọi là ngất?

Tình huống xãy ra thường là người bệnh đang sinh hoạt bình thường như đọc sách, đi lại, nói chuyện... đột nhiên lăn ra bất tỉnh , không đáp ứng đau khi cấu véo, lay gọi bệnh nhân không thể mở mắt trả lời, có thể kèm theo tím tái, lạnh người , vả mồ hôi.Sau vài giây đến vài phút bệnh nhân sẽ hồi tỉnh lại và da trở nên hồng hào lại. Nguy hiểm nhất là bệnh nhân dễ bị té ngã gây chấn thương não, gãy tay chân.Trong bệnh lý ngất có một số nguyên nhân loạn nhịp tim nếu không chẩn đoán sớm sẽ gây đột tử.

Những xét nghiệm thường được bác sĩ chỉ định khi bạn đi khám bệnh

Điện tâm đồ lúc nghỉ (ECG) thường giúp gợi ý ban đầu khi có bất thường hoặc tình cờ phát hiện cơn nhịp chậm hoặc cơn nhịp nhanh thoáng qua. Ngất xuất hiện thoáng qua do đó thật khó có thể đo ECG kịp thời nếu bệnh nhân ở xa cơ sở y tế.

Hình 1: Một bệnh nhân được đo điện tâm đồ bằng kỷ thuật điện toán

ECG holter (điện tâm đồ nhật ký): là kỷ thuật nhằm phát hiện loạn nhịp tiềm tàng nguy hiểm nhờ vào thời gian đo kéo dài mà ECG lúc nghỉ không thể phát hiện được. Kỷ thuật này giúp người bệnh đo ECG bằng một máy khá gọn ( kích thước như máy chụp ảnh nhỏ) mang theo người để theo dõi điện tâm đồ liên tục suốt 24 giờ trong điều kiện làm việc ,sinh hoạt bình thường. Máy có khả năng lưu trữ sóng điện tim , sau khi nạp vào máy vi tính sẽ dễ dàng in ra kết quả .

Hình 2: Các điện cực được dán trênngười bệnh nhân.

Hình 3: Kỷ thuật viên dặn dò bệnh nhân sau khi gắn máy holter ECG

Tại MEDIC thường xuyên sử dụng máy này cho chẩn đoáùn ngất nghi ngờ loạïn nhịp.Trước khi đi đến làm xét nghiệm này, người bệnh cần liên hệ trước với phòng Holter ECG để đặt hẹn(qua điện thoại :8357284 bấm 127). Người bệnh cần tắm rữa trước vì phải đeo máy nguyên ngày (24 giờ) và đem theo chứng minh nhân dân để thế chấp .Chi phí cho 1 lần đặt máy theo dõi là 200.000 đồng. Sau 1 ngày đúng giờ hẹn phải trả lại máy và kết quả sẽ do bác sĩ chuyên trách xử lý và trả kết quả trong vòng 30ph -1 giờ sau.

Nghiệm pháp bàn nghiêng: là xét nghiệm kết hợp đo ECG và theo dõi huyết áp trong khi bệnh nhân được thay đổi tư thế trên một cái bàn nghiêng.thời gian theo dõi ECG và huyết áp chừng 30-45 phút. Trong quá trình lamø nghiệm pháp, để gia tăng khả năng chẩn đoán , thầy thuốc sẽ cho truyền thuốc isuprel hoặc cho ngậm nitrogycerine. Một số bệnh nhân có bệnh lý sẽ xuất hiện tụt huyết áp và nhịp tim chậm kèm ngất khi bàn nghiêng được chuyển từ 0 độ sang 60-80 độ . Hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa sử dụng rộng rãi xét nghiệm này dù đã được chứng minh là hữu ích.

Hình 4: Nghiệm pháp bàn nghiêng

Điện sinh lý: là kỷ thuật người ta đưa dây điện cực vào tim người bệnh qua đường tỉnh mạch hoặc động mạch chi . Người ta tạo kích thích tim bằng xung điện đồng thời đo điện tâm đồ trong buồng tim, những người có nguy cơ loạïn nhịp sẽ xuất hiện với kích thích này. Đây là xét nghiệm rất ích lợi nhưng có biến chứng và khá đắt tiền cho nên thường được bác sĩ chỉ định khi cần thiết.

Siêu âm tim: là xét nghiệm khá phổ biến trong việc khảo sát cấu trúc của tim đối với bệnh van tin, tim bẩm sinh và bệnh cơ tim... ngoài ra còn giúp xác định tình trạng chức năng tim .

Hình 5: siêu âm tim

Một số nguyên nhân và xét nghiệm cần làm

Triệâu chứng kèm Nguyên nhân có thể Xét nghiệm cần làm

Mệt , khó thở Hẹp van động mạch chủ Siêu âm tim khi gắng sức Bệnh cơ tim phì đại

Hồi hộp,khó thở Loạn nhịp tim (quá nhanh #9; Điện âm đồ nhật xuât hiện cơn #9; #9; >140 lần /ph hoặc nhịp quá #9; ký(ECG holter) hoặc chậm<>

Ngất sau đi tiểu Cường phế vị-vận mạch Nghiệm pháp bàn nghiêng thay đổi tư thế (Vasovagal)

Ngất sau khi đứng Tụt huyết áp tư thế Đo huyết áp khi đứng đột đột ngột, người già ngột, nghiệmpháp bàn hoặc sử dụng thuốc nghiêng

Ngất khi xoay đầu Xoang cảnh nhạy cảm Xoa xoang cảnh kết hợp hay thắt cà vạt... ECG và đo huyết áp

Tiền sử gia đình Hội chứng QT dài Điện sinh lý, ECG holter

Bị đột tử Brugada, loạn sản Máy theo dõi ECG cấy vào thất phải ... cơ thể

Một số bệnh lý cần phân biệt với ngất

Động kinh : co giật sùi bọt mép, mất ý thức sau cơn.Xét nghiệm cần làm là điện não đồ (EEG).Khi khó khăn vẫn cần đến xét nghiệm chuyên sâu như trên để loại trừ loạn nhịp tim.

Cơn thiếu máu não thoáùng qua:Cần khám lâm sàng cẩn thận xem xét có yếu hay liệt nữa người kết hợp với tình trạng tri giác, đo huyết áp, ECG theo dõi liên tục...có thể sử dụng CT scan, MRI sọ não để xác minh có tổn thương khu trú ở não hay không.

Ngất do bệnh lý tâm thần kinh:

Do hoảng sợ tâm lý: bị kết án, người thân chết...

Hystery: thường gặp người trẻ, phái nữ, được chìu chuộng, không mắc bệnh tim, không tìm thấy nguyên nhân và ngất tái phát thường xuyên...

Các cách thức điều trị cho bệnh nhân ngất

Đối với người có cơn nhịp nhanh có thể sử dụng thuốc chống loạn nhịp, hoặc máy khử rung. Máy này được đặt cấy ở thành ngực nối với dây điện cực đặt trong buồng tim để phát ra xung điện nhằm xoá đi các ổ phát nhịp tim nhanh bất thường.Đối với người có nhịp tim quá chậm (blốc A-V hoàn toàn, suy nút xoang) thì được đặt máy tạo nhịp tim để kích thích phát nhịp khi tim ngừng quá lâu hoặc quá chậm.

Các bệnh nhân Brugada,bệnh cơ tim phì đại thường được đặt máy khử rung để làm giảm nguy cơ đột tử.

Đối với người ngất do phế vị cũng thường được điều trị bằng thuốc ức chế bêta.Đối với người ngất có huyết áp thấp, thể sử dụng fludrocortisone hoặc midodrine. Đối với người có nhịp chậm đáng kể lúc nghỉ thì có thể sử dụng propantheline .Một số trường hợp ngất ,người ta điều trị bằng cách đặt máy tạo nhịp tim.

Y HỌC CỔ TRUYỀN: NGẤT

(Hưu Khắc - Shock - Shock )

A. Đại cương

Ngất là trạng thái chết trong chốc lát. Sau 1 thời gian ngắn, người bệnh lại trở lại bình thường và tỉnh lại.

YHCT xếp chứng này vào loại chứng ‘Quyết’, chứng ‘Thoát’ hoặc hiện tượng ‘Vong Âm’ hoặc ‘Vong Dương’.

B. Nguyên nhân

. Thường thấy nơi người cơ thể suy yếu, lao lực quá sức, tình cảm thay đổi đột ngột.

. Vong Âm thường do dùng phương pháp phát hãn, thổ hoặc hạ làm cho tân dịch hao tổn quá nhiều hoặc do thổ huyết, tiểu ra huyết nhiều quá làm âm dịch bị hao tổn gây ra.

. Do Âm Dương Khí Huyết liên hệ mật thiết do đó, âm kiệt thì dương cũng theo đó mà suy, huyết thoát thì khí cũng mất chỗ dựa, sinh ra vong Dương.

C. Triệu chứng

Đột nhiên ngã ra bất tỉnh, sắc mặt tái xanh, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh, huyết áp tụt (hạ) xuống.

. Nếu kèm theo hơi thở yếu, môi thâm, chất lưỡi dầy, mạch Tế, vô lực là dấu hiệu Khí thoát, nặng thì gọi là Vong Dương.

. Nếu kèm miệng khát, bồn chồn vật vã, mạch Vi mà Sác là dấu hiệu Huyết thoát, nặng thì Vong Âm.

. Nếu hôn mê, hô hấp yếu, tiếng tim yếu, mạch hầu như không bắt được là dấu hiệu Khí và Huyết đều thoát, thuộc loại bệnh nặng.

D. Điều trị

1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Sơ quyết, hồi dương.

* Huyệt chính: Tố Liêu (Đc.25) + Nội Quan (Tb.6).

* Huyệt phụ: Nhân Trung (Đc.26), Trung Xung (Tb.9), Dũng Tuyền (Th.1), Túc Tam Lý (Vi.36) .

. Cách Châm: Bắt đầu châm huyệt chính, vê kim liên tục, kích thích mạnh vừa, đợi huyết áp có lực, ổn định rồi thì có thể không vê kim nữa. Nếu huyết áp không tăng rõ rệt thì thêm huyệt phụ.

* Cứu: Bá Hội (Đc.20), Tề Trung, Khí Hải (Nh.6), Quan Nguyên. Dùng ngải viên hoặc ngải điếu cứu cho đến khi mạch hồi phục, mồ hôi không ra nữa thì thôi.

2- Nhân Trung (Đc.26) + Tố Liêu (Đc.25) + Bá Hội (Đc.20) + Thiếu Xung (Tm.9) (Châm Cứu Học HongKong).

3- Khai khiếu tỉnh thần là chính, sau đó dùng phép điều hòa kinh khí, an thần. Châm kích thích mạnh Nhân Trung (Đc.26) + Thập Tuyên để khai khiếu, tỉnh thần.

Châm từng huyệt cho đến khi tỉnh thì châm Nội Quan (Tb.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) để điều hòa kinh khí, an thần (Châm Cứu Học Việt Nam).

4- Nhân Trung (Đc.26) + Trung Xung (Tb.9) + Nội Quan (Tb.6) + Bá Hội (Đc.20 + Tố Liêu (Đc.25).

Bắt đầu châm Nhân Trung và Trung Xung, thỉnh thoảng vê kim.

Nếu không bớt, thêm Nội Quan.

Nếu huyết áp không tăng, thêm Tố Liêu, kích thích mạnh vừa (Tân Y Liệu Pháp Thủ Sách).

5- Châm Nhân Trung (Đc.26) + Dũng Tuyền (Th.1). Kích thích mạnh, thỉnh thoảng vê kim, lưu kim 15 phút.

Nếu chứng trạng không tiến triển, phối hợp châm Tố Liêu, Nội Quan, vê kim liên tục.

Hoặc cứu thêm Khí Hải, Quan Nguyên cho đến khi tỉnh lại (Thường Kiến Bệnh Trung Y Lâm Sàng Thủ Sách).

0 comments

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã ghé hqson.tk. Bạn có ý kiến thắc mắc hay bình luận gì về bài viết này vui lòng viết ở đây.
Nếu bạn không có tài khoản google, vui lòng chọn "Anonymous" (người dùng nặc danh) "name"(tên hoặc địa chỉ trang web,blog bạn)
Tôi hy vọng bạn sẻ tìm đc nhiều thú vị khi tham quan blog này !...