Tổng hợp bài viết về sức khỏe 1

Posted by Posted by HOA QUẢ SƠN On Thứ Hai, tháng 3 02, 2009

rau lá xanh ngừa đục nhân mắt

Rau cải xoăn.
Rau cải xoăn.

Một nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng các chất chống oxi hóa có trong rau chân vịt, cải và nhiều loại rau khác giúp người già ngăn chặn được bệnh đục nhân mắt.

Trong một thử nghiệm, tiến sĩ Joshua A.Bomser và các nhà khoa học tại Đại học Ohio thuộc bang Columbus (Mỹ) đã nuôi tế bào thuỷ tinh thể trong phòng thí nghiệm. Sau đó nhóm chọn ra một số tế bào và đưa chúng vào các ống nghiệm có lutein, zeaxanthin, vitamin E. Số còn lại không được cho tiếp xúc. Cuối cùng, họ cho tất cả tế bào vào môi trường có bức xạ cực tím, mục đích là giảm thiểu tác động của ánh sáng mặt trời.

Kết quả cho thấy những tế bào được tiếp xúc với tác nhân chống ôxi hoá ít bị tổn hại hơn so với các tế bào kia. Nhóm tế bào được tiếp xúc với lutein, zeaxanthin ít bị tổn hại hơn nhiều so với nhóm tế bào tiếp xúc với vitamin E.

"Phát hiện của chúng tôi cho thấy lutein và zeaxanthin có tác dụng bảo vệ tế bào mắt khỏi những tổn hại do quá trình oxi hoá gây ra. Mà những chất này lại có rất nhiều trong rau lá xanh, chẳng hạn như cải củ xanh, cải xoăn, rau chân vịt", Bomser nói.

Bệnh đục nhân mắt xuất hiện khi các protein trong thuỷ tinh thể bắt đầu kết khối với nhau, tạo thành một mảng đục làm giảm thị lực của mắt. Càng tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời, nguy cơ mắc bệnh càng tăng. Có nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng những người ăn nhiều rau quả có tỷ lệ bị đục nhân mắt thấp hơn. Đặc biệt, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng vitamin E và C, có nhiều trong rau quả, có tác dụng bảo vệ tế bào cơ thể khỏi những tổn hại do các phân tử gốc tự do gây ra. Các phân tử gốc tự do là sản phẩm "không mong đợi" của quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Chúng gây ra quá trình oxi hóa, nguyên nhân dẫn đến nhiều loại bệnh trong đó có ung thư.

Bomser cho biết các chất chống oxi hoá trong rau quả, thực phẩm có tác dụng tốt hơn các loại dược phẩm bổ sung tác nhân oxi hoá. Tuy nhiên, việc uống các loại thuốc bổ sung lutein và zeaxanthin cũng đem lại hiệu quả cao.

ăn nhiều rau quả, ít chất béo giúp chống nhăn da

Các nhà nghiên cứu Australia đã khẳng định như vậy sau khi khảo sát thói quen ăn uống của 450 người trên 70 tuổi sống tại Australia, Hy Lạp và Thụy Điển. Kết quả khảo sát cho thấy, những người Hy Lạp ăn nhiều rau xanh, dầu ôliu, tỏi và đậu có đôi má rất "trẻ thơ" so với các đồng bào thích ăn thịt béo, đồ ngọt, và bơ.

Còn đối với cư dân Australia, làn da đẹp đẽ nhất vẫn thuộc về những người hay uống trà, ăn dưa hấu, cá sardines, măng tây, táo, mận và bánh mì từ bột không tinh chế (whole grain bread). Những người Thụy Điển ăn sữa gầy, đậu và bánh rau bina cũng có làn da trẻ trung hơn so với những đồng bào ăn thịt đỏ, đồ xào rán, kem, bánh ngọt và nước ngọt có ga.

Nếu bạn có vấn đề về da và thừa cân, hãy thay thế các món ăn giàu mỡ bão hòa bằng những sản phẩm như cá, đậu, dầu ôliu, ngũ cốc và các sản phẩm không béo.

Cá chép - bài thuốc quý cho phụ nữ

Tác giả : DS. HỒ HÒA BÌNH (Theo Hợp tuyển Gia gia lạc Trung Quốc)

Người Trung Quốc cổ đại từng liệt "Ðuôi cá chép" vào một trong "bát trân" (8 cái quý) ngang với chân gấu. Trong Kinh Thi đã có bài thơ vịnh "Khởi kỳ thực ngư, tất hà chi" (Muốn ăn cá, tất phải ăn cá chép ở sông). Nhà y học thời Hậu Lương - Ðào Hoàng Cảnh (Trung Quốc) đã gọi cá chép là "Chư ngư chi trưởng, vi thực phẩm thưởng vị" (Cá chép đứng đầu các loại cá, là loại thực phẩm đứng đầu vị).

Cá chép thịt dày và béo, ít xương dăm, thớ thịt trắng mịn, mùi vị thơm ngon. Không những là món ăn ngon mà còn chứa nhiều chất dinh dưỡng, có tác dụng chữa trị bệnh tốt, đặc biệt là các bệnh phụ nữ. Trong Cương mục y học Trung Quốc thời lý có ghi: "Cá chép là dương tính trong âm tính, có tác dụng tiểu tiện, cho nên có thể chữa được bệnh khi kết lạnh, nướng lên thì hỏa hóa, có phát phong hàn, bình phổi thông sữa, làm sạch đường tiêu hóa, bài tiết và trừ khử được tả độc sưng tấy".

Cá chép trong dân gian Trung Quốc thường được gọi là "Ích mẫu hà tiêu" (Thuốc tiên chữa bệnh phụ khoa) vì nó có tác dụng nổi bật trong lĩnh vực này.

Tác dụng làm an thai: Phụ nữ mang thai dễ xuất hiện các triệu chứng khí huyết yếu kém, tâm tính không yên. Trong bài thuốc "Thánh Huệ", Thánh Huệ phương có ghi: Lấy một con cá chép nặng khoảng nửa cân, để cả vẩy, mổ bỏ tạp ruột, trộn thêm nửa lạng gạo nếp, rửa sạch, cho thêm ít vỏ quýt, gừng sống. Ðổ tất cả vào nồi ninh chín, cho thêm ít muối, ăn 5-7 lần sẽ có hiệu quả rất nhanh.

Chữa nôn mửa: Phụ nữ thời kỳ đầu mang thai thường xuất hiện các triệu chứng nôn mửa, chóng mặt... Y học cổ truyền gọi là "Nhiên thần ác trở" (Triệu chứng xấu khi mang thai). Nguyên nhân do tỳ vị suy yếu, mạch đập mạnh... gây nên. Lấy một con cá chép nặng khoảng 250g đánh vẩy, mổ bỏ nội tạng, rửa sạch, cho thêm 6g sa sâm đập nhỏ, 10g gừng tươi thái mỏng. Bỏ cả hai thứ vào trong bụng cá hầm chín, ăn trong ngày, có công hiệu kiện tỳ hòa vị, giảm thổn thức, tiêu trừ nôn mửa.

Chữa bệnh phù thũng: Sau khi mang thai 5-6 tháng, phụ nữ thường hay có chứng sưng mặt, chân tay phù thũng, tiểu tiện ít. Có thể dùng một con cá chép nặng 500g, 120g đậu đỏ (loại hạt nhỏ), cho thêm ít gừng, hành, bỏ vào nấu chín, ăn nhạt (chú ý không nêm mặn). Ðây là bài thuốc rất công hiệu.

Giúp làm tăng lượng sữa: Sau khi sinh, phụ nữ có người không có sữa hoặc ít sữa, có thể dùng một con cá chép nặng khoảng 2 lạng rưỡi (1/4kg), một chân giò lợn (loại bé), 3g thông thảo. Hầm thật nhừ, ăn dần 1-2 ngày sẽ có nhiều sữa và sữa rất mát tốt cho trẻ.

Chữa bệnh ứ huyết: Phụ nữ sau khi sinh có thể bị chứng khí huyết ứ trễ, đau bụng dưới, máu xấu không kịp bài tiết ra ngoài... Nghiền, tán nhỏ vẩy cá chép, cho vào từ 3-5g nước đun sôi. Uống với ít rượu nếp có công hiệu làm tan huyết, thông huyết, chữa trị được chứng ứ huyết.

Làm tăng công năng dạ dày: Dạ dày của phụ nữ sau khi sinh có thể thay đổi cường độ co bóp. Dùng một con cá chép nặng nửa cân, làm sạch vẩy và ruột, cho vào nồi nấu canh. Khi cá chín nhừ cho thêm ít gia vị, hồ tiêu, muối. Ăn cả nước và cái, có tác dụng bổ tỳ vị, trị bệnh hư hàn.

Canh trứng cà chua, một món ăn bổ dưỡng cho sức khỏe

Tác giả : BS. QUÁCH TUẤN VINH

Trong bữa ăn thường nhật của người Việt Nam, bên cạnh các món mặn, thường không thể thiếu món canh. Thế nhưng có thể bạn chưa biết, chính bát canh đơn sơ có thể lại là một bài thuốc quý!

Ðến nay, tôi vẫn không thể quên được bát canh trứng cà chua mẹ nấu nơi sơ tán trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Nay xin giới thiệu cùng các bạn giá trị của loại canh này, vừa ngon miệng vừa là dược thiện mang lại sức khỏe cho con người.

Cách nấu canh trứng - cà chua

Có thể nói, ở nước ta bất cứ bà nội trợ nào cũng có thể nấu một bát canh trứng vừa ngon vừa bổ dưỡng. Chỉ cần 1-2 quả trứng gà hay trứng vịt, đánh bông lên cho tan lẫn lòng đỏ và lòng trắng. Ðể đậm đà, bạn cần cho thêm chút nước mắm, mì chính vào trứng và trộn đều. Dùng 1-2 quả cà chua chín đỏ, cắt nhỏ, bỏ hạt đem nấu chín với nước. Thêm vài tai nấm hương để tăng mùi hương dân dã, sau đó từ từ vừa quấy nhẹ nồi canh đã sôi vừa đổ bát trứng vào, quấy đều. Thế là bạn đã có được một nồi canh trứng như ý.

Cà chua chứa nhiều loại vitamin rất có lợi cho sức khỏe

Từ kinh nghiệm của y học cổ truyền và qua nghiên cứu của y học hiện đại, các nhà khoa học đã xác nhận: Trong cà chua chứa rất nhiều loại vitamin khác nhau như vitamin C, B1, B2, B6, PP... và Lycopen, beta caroten. Thành phần đạm, đường, chất béo có trong cà chua rất ít, do vậy có thể coi đây là một loại thực phẩm nghèo năng lượng, rất thích hợp cho người mắc bệnh béo phì, một căn bệnh được coi là yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Ngoài ra trong cà chua có một loại sắc tố tạo nên màu đỏ tươi của cà, được gọi là Lycopen cùng với beta caroten (vitamin A tự nhiên) có tác dụng chống oxy hóa tế bào, rất tốt trong việc dự phòng các bệnh tim mạch. Một nghiên cứu của Ðại học Harvard (Mỹ) được thực hiện trên 90.000 nữ y tá đã đi đến kết luận: Nguy cơ đột quỵ do vỡ mạch máu não giảm ở những người ăn nhiều thực phẩm có chứa vitamin A tự nhiên. Vitamin C có trong cà chua với hàm lượng nhỏ, chỉ vào khoảng 12-15mg/100g cà chua. So với táo, lượng vitamin C trong cà chua chỉ bằng 1/10, nhưng bù lại cà chua lại có nhiều Lycopen và vitamin A thiên nhiên.

Do có nhiều tác dụng quý, người Pháp ngay từ những năm 1778 đã gọi cà chua là "trái táo vàng" hay "trái táo tình yêu".

Tác dụng của trứng gà

Các y gia đời trước đã đặt tên cho trứng gà là kê tử hoàng, một loại thuốc có tác dụng bổ huyết, dưỡng huyết. Nhiều bài thuốc Ðông y đã áp dụng trứng gà như một thức ăn bổ dưỡng và thuốc điều trị. Ðến nay, theo kết luận của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà dinh dưỡng Mỹ đã xem trứng gà là một vũ khí dinh dưỡng tự nhiên, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Trong trứng gà HDL-Cholesterol cần thiết và có lợi cho cơ thể cùng nhiều chất dinh dưỡng khác như vitamin B12, D, E, Riboflavin, Folate... Ðặc biệt vitamin E, acid béo Omega-3 của trứng khi liên kết với nhau sẽ tạo thành một hợp thức hóa học có khả năng làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Acid béo Omega-3 có tác dụng giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim, giảm đường máu, cải thiện tình trạng bệnh đái tháo đường, giảm sự hình thành các bệnh tắc mạch. Có tác dụng tích cực trong nhiều bệnh tim mạch, cao huyết áp, stress, suy nhược, kích thích tiêu hóa, chống táo bón, chống viêm xương khớp, tăng khả năng thải độc của gan, bổ não, nâng cao trí lực, phòng ngừa suy não, nâng cao năng lực trí tuệ, chống dị ứng, giảm ung thư và giảm các triệu chứng khó chịu trong thời gian có kinh ở phụ nữ...

Trứng gà còn là nguồn cung cấp nhiều acid amin cần thiết và có lợi cho cơ thể. Ðặc biệt, trứng gà chứa nhiều Lysin, là một trong 8 acid amin đặc biệt cần thiết cho cơ thể. Trong 100g trứng gà có chứa 1.070mg Lysin, nhiều gấp 9 lần so với sữa mẹ. Ðây là một acid amin tham gia tích cực vào sự phát triển của cơ thể. Ngoài ra Lecithin có nhiều trong lòng đỏ trứng có đặc tính kết hợp với chất béo để thấm qua thành ruột vào máu đi nuôi cơ thể, làm cho cholesterol không tăng trong huyết tương.

Cuối cùng, chúc các bạn tự nấu được một bát canh trứng vừa đậm đà hương vị đồng quê, vừa có tác dụng bổ dưỡng cho sức khỏe!

Uống sữa đậu nành đúng cách

Không nên uống sữa đậu nành chỉ mới đun sôi lăn tăn vì lúc này, sữa đậu chỉ đạt khoảng 80 độ C, nửa sống nửa chín, uống vào sẽ có hại. Cần đun sôi kỹ để phân giải hết các độc chất, bảo đảm an toàn thực phẩm.

Một số lưu ý khác khi dùng sữa đậu nành:

- Không nên cho đường đỏ: Trong đường đỏ có nhiều loại axít hữu cơ, khi kết hợp với protein trong sữa đậu sẽ làm protein bị kết tủa, khiến cơ thể khó hấp thu. Nếu cho đường trắng thì sẽ không bị hiện tượng trên.

- Không nên uống quá nhiều: Sữa đậu nành nếu được dùng quá nhiều sẽ phát sinh đầy bụng và khó chịu trong dạ dày, nếu nghiêm trọng còn có thể bị tiêu chảy. Do đó, chỉ nên uống vừa lượng, đặc biệt là người già và trẻ em.

- Không nên để sữa đậu trong phích nóng: Nhiệt độ trong phích rất thuận lợi cho sự sinh sôi của vi khuẩn, không có lợi cho sức khỏe.

BIA & SỨC KHỎE

Tác giả : DS. TRƯƠNG TẤT THỌ

Không phải ngẫu nhiên mà trên một tờ báo nước ngoài có bài viết với tựa đề khá hấp dẫn: "Mỗi ngày uống một lon bia sẽ khỏi cần đi khám bác sĩ" (Beer a day keep doctor away), như vậy nghĩa là bia có lợi cho sức khỏe.

BIA CÓ TỰ BAO GIỜ?

Thật đáng ngạc nhiên khi bia đã có từ thời... ông Bành Tổ, hay chính xác là cách đây 8.000 năm trước Công nguyên. Lúc này người ta đã biết làm men để chế ra loại thức uống này, đó là những công dân thành Babylone. Ðến 2000 năm sau, người Ai Cập cũng đã biết cách lên men bia và chứa trong những bình lớn.

Nhà bác học Antonius Van Leeuvenkoek (1680) là người đầu tiên quan sát các yếu tố cấu tạo nên bia. Nhà bác học Pháp Louis Pasteur (1822-1895) đã thành công trong việc chứng minh sự lên men bia không phải chỉ là phản ứng hóa học, mà còn có sự tham gia của các sinh vật cực nhỏ sống kỵ khí, đó chính là men bia. Những phản ứng lên men rượu từ đường cần phải có sự xúc tác của các enzyme, đó là các loại men sinh học.

Men bia có tên khoa học là Saccharomyces cerevisia, là loại nấm đơn bào đa công dụng dùng sản xuất bia, rượu, rượu vang, bánh mì...

Trong công nghệ di truyền, nếu cho men bia vào gen tổng hợp albumin hay hémoglobine của người thì các tế bào men bia cũng sản xuất ra albumine hay hémoglobine người. Ngoài ra người ta còn đưa vào trong men bia một loại vaccin chống bệnh viêm gan siêu vi B, nhằm tránh việc nhiễm virus, dù đã được làm yếu đi vẫn có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Trong lĩnh vực di truyền, men bia cũng đóng vai trò quan trọng khi được dùng làm nhân chuyển đổi gen tế bào.

TÁC DỤNG CỦA MEN BIA ÐỐI VỚI SỨC KHỎE

Men bia sống thường được sử dụng làm thuốc trong các trường hợp cơ thể mệt mỏi, kiệt sức, thiếu máu, kém ăn, chậm tăng trưởng, stress, rối loạn thần kinh.

Kết hợp với selenium để tạo thành phân tử selenium hữu cơ, có tác dụng gia tăng hiệu năng chống các gốc tự do, làm chậm quá trình lão hóa và là một yếu tố quan trọng trong nhóm các chất chống oxy hóa cần thiết cho sức khỏe. Selenium là chất bảo vệ tế bào gan, gia tăng biến dưỡng những chất mỡ thừa nên đồng thời cũng có tác dụng bảo vệ tim mạch, cải thiện các bệnh ngoài da do gan suy yếu.

Men bia sống còn có tác dụng chống nhiễm trùng bằng cách tăng cường hệ miễn nhiễm. Các loại thuốc uống chứa men bia thường kết hợp men bia 400mg với men bia - selenium 75mg, silice 25mg, giúp tăng cường sức khỏe, chống nhiễm trùng (trong các trường hợp bị cảm, ho, nóng sốt) làm hệ miễn nhiễm suy yếu. Men bia còn được dùng làm thực phẩm bổ sung cho phụ nữ mang thai và cho con bú.

Men bia sống dùng làm thuốc thường có khoảng 20 tỷ tế bào sống Saccharomyces cerevisiae/1g, chứa trong hai viên nang với hàm lượng 16 acid amin, 17 vitamin, 14 muối khoáng; Ðược xem như loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và là véc-tơ dẫn đường cho sự hấp thu các loại vitamin khác vào cơ thể.

Men bia cũng giúp tái tạo những vi khuẩn cần thiết cho sự tiêu hóa ở đường ruột nên thường được dùng cùng lúc hay sau một đợt điều trị bằng kháng sinh, hoặc khi bị rối loạn các vi khuẩn hữu ích ở đường ruột.

- Men bia còn có tác dụng lên da, tóc và móng.

VÌ SAO UỐNG BIA NHIỀU LẠI BỊ SAY?

Uống bia nhiều dứt khoát sẽ say vì trong bia chứa một hàm lượng cồn thay đổi tùy theo loại. Nếu uống bia tươi thì lại càng mau say hơn. Sau đây là tác dụng của nồng độ rượu trong máu:

- 0,05% rượu trong máu (R/M): Mất khả năng xét đoán, suy nghĩ, tính chủ động, huyết áp tăng.

- 0,08% (R/M): Huyết áp tiếp tục tăng, khó kiềm chế cử chỉ, cử động không bình thường.

- 0,10% (R/M): Mất tự chủ, hay đi đi lại lại, miệng nói lắp bắp lung tung.

- 0,20 (R/M): Thần kinh bị tác động nghiêm trọng, đi bắt đầu lảo đảo, nói to, không mạch lạc, nếu lái xe dễ gây ra tai nạn.

- 0,30% (R/M): Vùng não bị tổn thương tạo nên nhiều ý nghĩ sai lầm.

- 0,40% (R/M): Nếu ngủ, khó đánh thức; Không chủ động trong hành động.

- 0,50% (R/M): Ngất, trung khu thần kinh điều khiển sự hô hấp và tuần hoàn tim bị ngưng lại, dẫn đến tử vong.

Vì thế khi uống đến lúc nồng độ rượu/máu lên đến 0,2%, con người thường dễ bị "bổ ngửa" là vậy.

- Uống bia nhiều dễ bị "nở vòng eo" vì tích mỡ ở bụng do thừa năng lượng.

- Khi đã quá chén lại ham sinh hoạt tình dục, sẽ dễ ảnh hưởng đến bào thai do tác hại của rượu. Ðó là chưa kể nhiều ông chồng hay "đòi hỏi" khi đã say xỉn dễ tạo tâm lý ức chế nơi người vợ, dẫn đến tình trạng lãnh cảm, làm cuộc sống lứa đôi mất hạnh phúc.

- Ngoài ra uống bia nhiều cũng dễ bị "bổ ngửa" vì "viêm... màng túi".

Tóm lại, bia không thể thiếu trong cuộc sống, là phương tiện giao lưu bạn bè hoặc kết hợp công việc, cũng là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng hàng ngày nếu dùng đúng mức. Nhưng nếu quá lạm dụng, không biết kiềm chế sẽ dễ dẫn đến những hậu quả khó lường.

Chú thích ảnh: Men bia do Pasteur mô tả.

Mùa hè nên uống nước như thế nào?

Nên uống nước một cách từ từ.

Bạn nhịn uống nước đã lâu và khát điên lên được. Trông thấy bình nước, bạn vội vàng cầm ngay lấy định tu liền một lúc cho đã. Đừng làm thế, vì quá nhiều nước vào dạ dày cùng một lúc không chỉ cản trở tiêu hóa mà còn khiến tim bạn đập loạn lên, mồ hôi túa ra một cách bất thường.

Để tránh hiện tượng trên, bạn cố gắng đừng để mình nhịn uống quá lâu mà phải uống thường xuyên ngay cả khi chưa thấy khát. Nếu vì hoàn cảnh mà không uống được, đến khi thấy khát, bạn cũng đừng uống nhiều nước ngay một lúc. Hãy uống từ từ ít một cho đến khi hết khát.

Mùa hè nắng nóng, mồ hôi thoát ra nhiều nên nhu cầu về nước tăng cao, nhất là với những người làm việc nặng hoặc ngoài trời nắng. Lúc này, cơ thể cần nước để bù cho lượng mồ hôi thoát ra nhằm cân bằng nhiệt độ cơ thể.

Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh, trong cùng một điều kiện lao động như nhau và lượng mồ hôi thải ra cũng tương đương, nhóm người được uống nước đầy đủ, đúng cách sẽ khỏe mạnh hơn, năng suất lao động cao và trạng thái mệt mỏi đến chậm hơn... Còn ở nhóm uống nước hạn chế và nhóm uống nước không đúng cách (uống liền một lúc nhiều nước, để khát lâu mới uống...), cảm giác mệt mỏi đến nhanh hơn, năng suất lao động giảm.

Món ăn - bài thuốc cho người bị loãng xương

Dâu chín được dùng trong nhiều bài thuốc chữa "cốt nuy".

Trong Đông y, loãng xương thuộc phạm vi chứng "cốt nuy" có liên quan tới 3 tạng là thận, tỳ và can; trong đó, tạng thận có vai trò đặc biệt quan trọng. Về trị liệu, ngoài việc dùng thuốc, châm cứu, tập khí công dưỡng sinh, người xưa còn sử dụng nhiều món ăn - bài thuốc độc đáo.

1. Thể bệnh thận âm hư tổn: Lưng đau gối mỏi, hay buồn nhức các đầu ngón tay và chân, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực chộn rộn không yên, môi khô miệng khát, thích ăn đồ mát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ.

- Đậu đen 500g, sơn thù, bạch linh, đương quy, tang thầm, thục địa, bổ cốt chi, thỏ ty tử, hạn liên thảo, ngũ vị tử, kỷ tử, địa cốt bì, vừng đen, muối ăn mỗi thứ 10 g. Đậu đen rửa sạch, ngâm nước ấm trong 30 phút; các vị thuốc khác đem sắc kỹ 4 lần, mỗi lần chừng 30 phút. Trộn 4 loại nước lại với nhau, cho đậu đen và muối vào sắc kỹ bằng lửa nhỏ cho đến khi cạn kiệt. Lấy đậu đen ra phơi hoặc sấy thật khô, đựng vào lọ kín dùng dần; mỗi ngày ăn 20-30 g. Công dụng: Bổ thận dưỡng can, cường gân tráng cốt.

- Tang thầm tươi (quả dâu chín) 2.500 g, thục địa, hoài sơn, hoàng tinh mỗi thứ 50 g, thiên hoa phấn 100 g. Tang thầm rửa sạch, ép lấy nước cốt; các vị thuốc khác đem sắc kỹ lấy 500 ml dịch chiết rồi hòa với nước dâu, tiếp tục cô nhỏ lửa cho đến khi thành cao đặc. Đựng thuốc trong bình thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Bổ can thận, dưỡng khí huyết, làm mạnh gân cốt.

2. Thể bệnh can thận âm hư: Thể trạng gầy yếu, hay hoa mắt chóng mặt, thị lực giảm sút, tai ù điếc, lưng đau gối mỏi, móng tay và móng chân khô giòn, dễ bị chuột rút, tâm trạng phiền muộn, trong lòng hay bức bối không yên, lòng bàn tay và bàn chân nóng, có thể có gãy xương, miệng khô họng khát, lưỡi đỏ, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.

- Tang thầm 30 g, kỷ tử 30 g, gạo tẻ 80 g. Các vị thuốc rửa sạch đem nấu với gạo thành cháo, chế thêm một chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Tư âm, bổ can thận.

- Bột bạch linh, bột mỳ, bột xương dê, bột mẫu lệ và đường trắng lượng bằng nhau trộn đều, cho lượng nước vừa đủ, nhào thật kỹ, chế thêm mỡ và muối rồi nặn thành những chiếc bánh nhỏ, nướng chín, dùng làm đồ ăn điểm tâm hằng ngày. Công dụng: Bổ tỳ thận, làm mạnh gân cốt.

- Quy bản 100 g, vỏ trứng gà 100 g, đường trắng 50 g. Quy bản và vỏ trứng rửa sạch, để ráo nước rồi sao giòn và nghiền thành bột, cho thêm đường trắng, trộn đều, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 5 g. Công dụng: Bổ thận, kiện tỳ, làm mạnh gân xương.

3. Thể tỳ thận dương hư: Toàn trạng mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng đau gối mỏi, ăn kém, chậm tiêu bụng chướng, đại tiện lỏng hoặc nát, có thể có phù nhẹ hai chân, nam giới liệt dương, di tinh, nữ giới kinh nguyệt không đều, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt.

- Chim sẻ 5 con, kỷ tử 20 g, đại táo 15 g, gạo tẻ 60 g. Chim sẻ làm thịt, bỏ lông, chân và phủ tạng rồi đem hầm với kỷ tử và gạo tẻ thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ thận, ôn dương, ích tinh, làm mạnh gân xương.

- Cá ngựa (hải mã) 50 g, dương vật và tinh hoàn bò 500 g, đan sâm 500 g, hoàng kỳ, a giao, hạch đào nhân, đường phèn mỗi thứ 250 g. Tinh hoàn và dương vật bò rửa sạch, thái miếng; cá ngựa sao khô tán thành bột mịn; a giao tẩm rượu sao phồng; hoàng kỳ và đan sâm sắc kỹ lấy nước cốt. Cho tất cả vào cô nhỏ lửa thành cao đặc, đựng vào lọ thủy tinh kín miệng để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Bổ thận, tráng dương, ích tinh, cường gân, tráng cốt.

- Xương sống chó 200 g, đẳng sâm, thỏ ty tử, thục địa mỗi thứ 10 g, gia vị vừa đủ. Xương chó rửa sạch, chặt nhỏ; các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín miệng; tất cả cho vào nồi hầm nhừ, chế đủ gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: Bổ thận ôn dương, ích khí dưỡng huyết, cường gân tráng cốt.

- Tôm nõn 50 g, trứng gà 1 quả, rau hẹ 200 g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Tôm rửa sạch, rau hẹ cắt đoạn, phi thơm hành mỡ rồi cho rau hẹ và tôm vào xào to lửa, khi gần chín đập trứng vào đảo đều một lát là được, dùng làm thức ăn hàng ngày. Công dụng: Bổ thận, ôn dương và làm mạnh gân cốt.

Sữa chua đậu nành chữa loạn khuẩn đường ruột

Do dễ hấp thu và giữ được sự cân bằng vi khuẩn, sữa chua đậu nành có thể giúp những bệnh nhân loạn khuẩn đường ruột khỏi bệnh và hồi phục sức khỏe nhanh chóng. Nghiên cứu cho thấy, sau 30 ngày dùng sữa chua loại này, hơn 90% bệnh nhân (cả người lớn và trẻ em) tăng 0,5-3 kg trọng lượng.

Loạn khuẩn đường ruột là kết quả của việc dùng kháng sinh kéo dài. Các biểu hiện đặc trưng là đi ngoài phân lỏng, phân sống, lổn nhổn những thức ăn không tiêu hoặc có nhiều chất lầy nhầy như mũi. Bệnh nhân dễ bị suy dinh dưỡng; sức chống đỡ của niêm mạc ống tiêu hóa giảm, tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại hoạt động.

Nhiệm vụ được đặt ra là phải điều trị tiêu chảy, lập lại cân bằng vi khuẩn đường ruột và khôi phục tiêu hóa. Đây là một công việc khá khó khăn. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, việc bổ sung sữa chua đậu nành vào chế độ ăn của người bệnh lại có tác dụng rất tốt. Bệnh nhân sẽ hết đau bụng và đầy hơi, phân thành khuôn, đại tiện ngày 1 lần.

Liều lượng cụ thể:

- Người lớn dùng 500 ml/ngày, chia làm 2 lần vào lúc 8h và 15h.

- Trẻ em 13-20 tháng tuổi dùng 150 ml, thời gian như trên. Các bữa ăn khác của trẻ vẫn được duy trì bình thường.

Cách làm sữa chua đậu nành

Có thể chế biến sữa chua này từ hạt đậu tương hoặc bột đậu tương sống.

- Làm từ hạt đậu tương: Đậu hạt 100-150 g, đường 50-70 g, men Lactobacillus 20 g, nước 1 lít.

Đậu nhặt sạch tạp chất, ngâm nước ấm 20-30 độ C trong 6-8 giờ, đãi sạch vỏ rồi xay nước (có thể xay bằng máy sinh tố, máy xay thịt quay tay hoặc cối đá). Sau đó lọc bỏ bã qua vải phin mỏng, cho đường vào. Đun sôi dịch sữa, để nguội 30-40 độ C rồi cho men (đã đánh nhuyễn) vào. Đổ sữa vào cốc sạch, cho vào tủ ấm ở nhiệt độ 40-50 độ C trong 2 giờ (nếu không có tủ ấm có thể ủ trong nước ấm 40-50 độ C). Khi mặt sữa đông mịn, đều là được.

- Làm từ bột đậu tương sống: Bột đậu tương sống 60-65 g, đường 50-70 g, men Lactobacillus 20 g, nước 1 lít.

Hòa tan bột đậu tương trong nước ấm 30-35 độ C rồi lọc qua phin mỏng. Các bước tiếp theo được thực hiện giống như cách trên.

Sản phẩm đạt yêu cầu có màu trắng, đông mịn, đông đều từ đáy cốc lên mặt sữa, vị hơi chua, béo ngậy. Có thể bảo quản sữa trong tủ lạnh 1-2 ngày.

0 comments

Đăng nhận xét

Cám ơn bạn đã ghé hqson.tk. Bạn có ý kiến thắc mắc hay bình luận gì về bài viết này vui lòng viết ở đây.
Nếu bạn không có tài khoản google, vui lòng chọn "Anonymous" (người dùng nặc danh) "name"(tên hoặc địa chỉ trang web,blog bạn)
Tôi hy vọng bạn sẻ tìm đc nhiều thú vị khi tham quan blog này !...